Những điều cần lưu ý khi phân tích tội giao cấu theo quy định mới?

Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191

1. Khái quát chung

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại Điều 142 và điều 144,145 BLHS năm 2015 bổ sung thêm một khoản để chia nhỏ các trường hợp phạm tội quy định hình phạt tương ứng đồng thời quy định chặt chẽ các trường hợp phạm tội không thuộc trường hợp quy định của Bộ luật này. Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung “Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh”. Bổ sung hình phạt bổ sung: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giáo cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này
Lưu ý nếu giao cấu thuận tình với người chưa đủ 13 tuổi thì sẽ phạm tội Hiếp dâm trẻ em theo Điều 142 Bộ luật hình sự. Nếu giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi mà dùng vũ lực thủ đọan khác thì cấu thành tội Hiếp dâm trẻ em.

2. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

quy định như thế nào?

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:

Điểu 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đổi với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đoi với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mĩnh bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3. Bình luận

Điều luật gồm 4 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; các khoản 2, 3 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng và khoản 4 quy định khung hình phạt bổ sung.

3.1 Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định là người từ đủ 18 tuổi trở lên (người đã thành niên). Việc quy định này giới hạn phạm vi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự và qua đó gián tiếp thể hiện rõ ranh giới giữa chủ thể của tội phạm và nạn nhân của tội phạm khi xảy ra hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác mà có sự đồng thuận giữa họ với nhau. Khoảng cách về tuổi giữa bên chủ thể của tội phạm là người đã thành niên, có kinh nghiệm sống và bên nạn nhân của tội phạm là người chưa đủ 16 tuổi, thiếu kinh nghiệm sống có thể thể hiện chủ thể của tội phạm đã lợi dụng tình trạng thiếu hiểu biết của nạn nhân về hành vi giao cấu nói riêng cũng như hành vi quan hệ tình dục nói chung để có thể thực hiện được hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân.

3.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của một người đã thành niên quan hệ tình dục bằng hình thực giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được các em thuận tình.
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi của người đã thành niên giao cấu với trẻ em trong độ tuổi này, có sự thuận tình của các em. Các em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý và sức khỏe, nhất là cơ quan sinh dục, do đó giao cấu với đối tượng này sẽ gây nguy hiểm cho sự phát triển bình thường của các em, đặc biệt, gây tác hại đến sự phát triển đạo đức, nhân cách của các em, ảnh hưởng đến danh dự, phẩm giá của các em cả hiện tại và sau này. Ở lứa tuổi này, các em còn hạn chế về nhận thức, kinh nghiệm sống nên việc quyết định tình dục không được đúng đắn, dễ cảm tình, bị rủ rê.
Việc đồng tình thỏa thuận giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi thì còn coi là phạm tội hiếp dâm trẻ em.
Điều luật chỉ quy định người phạm tội có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với người trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà không xác định thủ đoạn để thực hiện được hành vi đó như ở tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (các điều 141, 142 BLHS), tội cưỡng dâm và tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi (các điều 143, 144 BLHS). Các điều luật này (trừ điểm b khoản 1 Điều 142 BLHS) đều xác định các thủ đoạn mà chủ thể sử dụng để thực hiện được hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân mà họ hoàn toàn không muốn hoặc phải miễn cưỡng chấp nhận. Ở tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, điều luật không xác định thái độ của nạn nhân cũng như không xác định thủ đoạn như ở tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm nên có thể hiểu có sự thuận tình đối với hành vi giao cấu cũng như hành vi quan hệ tình dục khác. Việc quy định độ tuổi của chủ thể và độ tuổi của nạn nhân gián tiếp thể hiện thủ đoạn lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của nạn nhân để làm họ “thuận tình” với hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác. Dấu hiệu “thuận tình” là dấu hiệu để phân biệt tội phạm được quy định tại Điều 145 với các tội phạm được quy định tại các điều 142 và 144 BLHS. Để khẳng định ranh giới này, khoản 1 của điều luật quy định thêm dấu hiệu “… nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này”. Quy định này không sai nhưng thực ra là không cần thiết vì 2 lý do:
– Không cần có nội dung quy định này thì người áp dụng đều biết, trường hợp đã thuộc Điêu 142 hoặc Điều 144 thì phải áp dụng Điêu 142 hoặc Điều 144 theo nguyên tắc chung.
– Nếu Điều 145 đã quy định thêm dấu hiệu phân biệt với các điều luật khác như vậy thì còn nhiều điều luật khác tưong tự cũng phải quy định thêm. Do vậy, việc quy định này phá vỡ tính thống nhất của Bộ luật về kỹ thuật lập pháp.

3.3 Mặt khách thể

Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

3.4 Dấu hiệu lỗi của chủ thể

Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi cổ ý. Người phạm tội biết người mà mình giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục là người ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Những trường hợp thật sự có sự nhầm tưởng về tuổi thì không cấu thành tội phạm này vì không thỏa mãn dấu hiệu lỗi.
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm được áp dụng cho trường họp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là trường hợp chủ thể đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (cùng 01 nạn nhân hoặc đối với các nạn nhân khác nhau).
– Đối với 02 người trở lên: Đây là trường họp chủ thể phạm tội này đối với nhiều nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
– Có tính chất loạn luãn: Đây là trường họp giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha và mối quan hệ đặc biệt này làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội nên cũng làm tăng trách nhiệm hình sự.
– Làm nạn nhân cỏ thai: Đây là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì nạn nhân còn phải chịu thêm tác động tâm lý nặng nề do việc mang thai khi còn ít tuổi.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%): Đây là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vi phạm tội còn xâm phạm rất nghiêm trọng đến sức khỏe của nạn nhân.
– Đoi với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh: Đây là trường hợp người phạm tội có quan hệ đặc biệt với nạn nhân. Họ là người có trách nhiệm với nạn nhân và nạn nhân là người có sự tin tưởng và trông cậy người phạm tội. Mối quan hệ đặc biệt này làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội nên cũng làm tăng trách nhiệm hình sự.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Đây là trường họp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vĩ phạm tội còn xâm phạm đặc biệt nghiêm trọng đến sức khỏe của nạn nhân.
– Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội: Đây là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vi phạm tội còn có thể làm cho nạn nhân bị lây nhiễm HIV, đe dọa đen tính mạng của họ.
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group