Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ bị xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực nhất định.

Khách thể của tội phạm có các dấu hiệu sau đây:

+ Là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ;

+ Những quan hệ xã hội đó bị xâm hại;

+ Những quan hệ xã hội đó bị thiệt hại hoặc bị đe đọa gây nên thiệt hại nhất định;

 

Ý nghĩa của khách thể của tội phạm:

+ Dựa vào khách thể của tội phạm để xác định được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

+ Dựa vào khách thể của tội phạm để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.

+ Việc xây dựng các chương, mục trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự chủ yếu dựa vào đặc điểm chung của nhóm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Luật LVN Group phân tích chi tiết ý nghĩa, biểu hiệu của khách thể tội phạm như sau:

 

1. Ý nghĩa của khách thể của tội phạm

Hiện nay chưa có một văn bản nào có giải thích rõ ràng về khái niệm của khách thể. Tuy nhiên, dựa trên những đặc điểm, những trường hợp cụ thể trong từng vụ án, ta có thể đưa ra khái niệm khách thể là những lợi ích vật chất hoặc lợi ích về tinh thần, hoặc lợi ích cả về vật chất và tinh thần mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó.

Cấu thành tội phạm là hệ thống các yếu tố cần và đủ đặc trưng cho từng tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Trong đó, khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là những mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Pháp luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một vài quan hệ xã hội nhất định được pháp luật hình sự bảo vệ.

Việc xác định khách thể của tội phạm mang ý nghĩa rất quan trọng trong pháp luật về hình sự bởi đó:

– Khách thể của tội phạm là căn cứ để định tội.

– Khách thể của tội phạm là căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác.

– Khách thể của tội phạm là căn cứ quan trọng để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho cộng đồng, xã hội của tội phạm.

– Thông qua khách thể của tội phạm có thể thấy được bản chất giai cấp của Bộ luật hình sự Việt Nam.

 

2. Những dấu hiệu trong khách thể của tội phạm

Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của mọi tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại, bị thiệt hại hoặc bị đe dọa gây nên thiệt hại nhất định. Đối với từng loại khách thể thì những mối quan hệ xã hội được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ tương ứng khác nhau.

Đối với khách thể chung của tội phạm

Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể bao gồm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền nhân thân (gồm: quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân), quyền sở hữu, các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa theo quy định pháp luật hình sự. Bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại đến khách thể chung là một trong những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành.

Chính vì vậy, thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một quốc gia.

Đối với khách thể loại của tội phạm

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất liên quan đến nhau, được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Ý nghĩa của việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự thành từng chương. 

Do đó, khách thể loại của tội phạm được thể hiện trong Bộ luật Hình sự chính là đầu đề của các chương quy định ở phần các tội phạm. Ví dụ:

– Các tội xâm phạm an ninh quốc gia: Có khách thể là an ninh quốc gia

– Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người: Có khách thể là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

– Các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân: Có khách thể là quyền tự do dân chủ của công dân

– Các tội xâm phạm sở hữu: Có khách thể là quyền sở hữu

– Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình: Có khách thể là quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như chế độ hôn nhân một vợ một chồng, tảo hôn, loạn luân, ngược đãi, …

– Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Có khách thể là trật tự quản lý kinh tế như trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, …

Đối với khách thể trực tiếp của tội phạm

Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại mà sự xâm hại này phản ánh được tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó. Các loại tội phạm chung một nhóm, cùng khách thể loại sẽ xâm phạm đến khách thể loại của tội phạm đó nhưng các tội phạm cùng một nhóm không phải xâm hại đến một khách thể cụ thể trong khách thể loại mà từng tội phạm sẽ xâm phạm trực tiếp đến từng khách thể riêng. Do đó, khách thể của tội phạm lại tiếp tục phân ra thành các khách thể trực tiếp của tội phạm.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, thì người tiến hành xác định khách thể cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Tức là, khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào (lỗi).

Ví dụ về khách thể của tội phạm

– Ví dụ 1: Hành vi cướp giật tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa xâm hại đến quan hệ sở hữu. Bản chất nguy hiểm của hành vi cướp giật tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ qua cả việc xâm hại quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Chính vì thế, cả hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm. Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp xác định đúng tội danh và đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể.

– Ví dụ 2: Hành vi trộm dây cáp quang điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định là tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia chứ không phải tội trộm cắp tài sản.

Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Chẳng hạn, hành vi giật túi xách của người đi đường làm cho chủ sở hữu ngã dẫn đến thương tích. Ở đây có hai khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu và sức khỏe. Tuy nhiên, quyền sở hữu đúng là khách thể trực tiếp của hành vi “cướp giật tài sản”, sức khỏe không là khách thể trực tiếp của hành vi này. Một tội phạm có thể có một khách thể trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội mà việc xem xét sự gây thiệt hại đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường hợp phạm tội.

 

3. Đối tượng tác động của tội phạm

Để thực hiện hành vi xâm hại đến khách thể thì người phạm tội phải tác động lên đối tượng nhất định. Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

– Đối tượng tác động của tội phạm là thông qua sự tác động lên đối tượng, tội phạm trực tiếp gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. 

+ Chẳng hạn như đối với tội phạm giết người: A dùng dao đâm chết B. Trong trường hợp phạm tội này, A là tội phạm đã xâm hại quan hệ nhân thân của B và chỉ có thể thông qua sự tác động lên cơ thể của B mới có thể gây thiệt hại đến tính mạng của B. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là con người B và B là chủ thể của quan hệ nhân thân.

+ Hay đối với tội trộm cắp tài sản: ví dụ A trộm xe máy của B, tức là tội phạm đã xâm hại đến quan hệ sở hữu của B. Trong trường hợp này, chỉ có thể thông qua sự tác động vào chiếc xe máy của B mới có thể gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu cho B. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là chiếc xe máy của B và chiếc xe máy đã trở thành là đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội.

+ Hoặc đối với tội đưa hối lộ: A là cán bộ Đội quản lý trật tự giao thông, xây dựng, môi trường đã nhận 07 triệu đồng của B là người đang xây dựng công trình lấn chiếm vỉa hè. Trong trường hợp này tội phạm xâm hại đến quan hệ về sự hoạt động đúng đắn của Đội quản lý trật tự giao thông, xây dựng, môi trường và chỉ có thể thông qua sự tác động làm thay đổi tới quyền và nghĩa vụ của cán bộ Đội quản lý ấy thì mới có thể gây thiệt hại cho sự hoạt động đúng đắn khi thành lập Đội quản lý trật tự. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là quyền và nghĩa vụ của A và nó là nội dung của quan hệ xã hội.

– Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm. Như vậy, khách thể của tội phạm phải được hợp thành bởi nhiều bộ phận trong đó có một bộ phận là về đối tượng tác động của tội phạm. Khách thể của tội phạm chính là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, các bộ phận hợp thành của khách thể của tội phạm cũng chính là các bộ phận hợp thành của các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm.

Tóm lại, để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội, tội phạm phải tác động vào đối tượng tác động. Cơ sở để xác định mức độ thiệt hại mà tội phạm gây ra phải dựa vào mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Các quan hệ xã hội khách thể của tội phạm trong mọi trường hợp luôn bị gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nếu có tội phạm xảy ra. Đối tượng tác động của tội phạm có thể ở tình trạng tốt hơn tình trạng ban đầu (nếu đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng vật chất).

– Các đối tượng tác động của tội phạm gồm có:

+ Một là, đối tượng con người

Con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, là chủ thể của nhiều quan hệ xã hội, trong đó có những quan hệ xã hội chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của chính con người – quan hệ nhân thân. Như vậy, đối tượng tác động của tội phạm có thể là con người đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Ví dụ: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự là khách thể đại diện cho những đối tượng bị tác động thuộc loại này.

+ Hai là các đối tượng vật chất

Trong các quan hệ xã hội được pháp luật Hình sự bảo vệ, có những quan hệ xã hội gây thiệt hại thông qua việc người phạm tội làm thay đổi mối quan hệ của những đối tượng vật chất như quan hệ sở hữu. Tất cả những hành vi làm thay đổi mối quan hệ sở hữu tài sản một cách trái pháp luật đều là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu.

Như vậy, các vật thể như tài sản, phương tiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của con người cũng có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Sự làm biến đổi tình trạng này có thể do những hành vi khác nhau gây ra như hành vi chiếm đoạt, hành vi chiếm giữ, hành vi sử dụng, hành vi hủy hoại hay làm hư hỏng.

+ Ba là sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội

Pháp luật hình sự không chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội qua việc đảm bảo tình trạng bình thường cho con người là chủ thể của quan hệ xã hội, hay chỉ bảo đảm cho những đối tương vật chất là khách thể của quan hệ xã hội mà ở những loại quan hệ xã hội nhất định, nó còn bảo vệ qua việc đảm bảo hoạt động bình thường của chủ thể với ý nghĩa là nội dung của quan hệ xã hội đó.

Trong những trường hợp này, hoạt động bình thường của chủ thể được coi là đối tượng của tội phạm. Sự là biến đối tình trạng của đối tượng tác động ở đây chính là sự cản trở hoạt động bình thường của các chủ thể hoặc dưới hình thức làm biến dạng xử sự của người khác hoặc dưới hình thức tự làm biến dạng xử sự của chính mình.

Mọi vướng mắc chưa rõ hoặc có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ tới bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại 24/7, gọi ngay tới số: 1900.0191 hoặc gửi email trực tiếp tại: Tư vấn pháp luật qua Email để được giải đáp. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật LVN Group.