>> Luật sư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

Tư vấn luật doanh nghiệp – Ảnh minh họa

Trường hợp người được tặng cho là người khác thì họ chỉ trở thành thành viên của công ty khi được Hội đồng thành viên chấp thuận”.

Như vậy, nếu người được tặng cho là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba thì người được tặng cho đương nhiên là thành viên mà không cần phải có sự chấp thuận của Hội đồng thành viên. Còn nếu người được tặng cho không phải là người cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba thì cần phải được Hội đồng thành viên chấp thuận thì mới trở thành thành viên.
Tình huống được phân tích sau đây sẽ cho thấy quy định trên cần được bàn thêm.

Tình huống: Một thành viên sở hữu 70% vốn điều lệ của Công ty trách nhiệm hữu hạn X. Thành viên này tặng cho phần vốn góp cho vợ và con nuôi của mình. Các vấn đề được đặt ra là: Việc chuyển nhượng có buộc phải được Hội đồng thành viên chấp thuận không? Nếu phải được Hội đồng thành viên chấp thuận thì người tặng cho có quyền biểu quyết không? Nếu phải được Hội đồng thành viên chấp thuận thì tỷ lệ biểu quyết là bao nhiêu phần trăm?

Vì vợ và con nuôi của thành viên không phải là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ 3 nên theo quy định tại Khoản 5 Điều 45 Luật Doanh nghiệp 2005 việc chuyển nhượng phải được Hội đồng thành viên chấp thuận. Điều này không hợp lý vì vợ, con đẻ, con nuôi đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 nhưng trong vấn đề tặng cho phần vốn góp lại có sự phân biệt. Con đẻ là người được tặng cho thì con đẻ đương nhiên là thành viên, còn vợ và con nuôi là người được tặng cho thì phải được sự chấp thuận của Hội đồng thành viên mới trở thành thành viên. Đấy là chưa kể đến tặng cho cháu nội, cháu ngoại (chỉ thuộc hàng thừa kế thứ hai) thì cháu nội, cháu ngoại đương nhiên là thành viên còn tặng cho vợ và con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất) thì vợ và con nuôi lại phải được sự chấp thuận của Hội đồng thành viên mới trở thành thành viên. Quy định này dường như có sự không hợp lý và rất dễ “lách”. Nếu thành viên muốn tặng cho vợ nhưng lại không muốn thông qua Hội đồng thành viên thì thực hiện trước tiên tặng cho con đẻ, sau đó con đẻ lại tặng cho mẹ.

Một vấn đề khác chưa rõ ràng là khi Hội đồng thành viên biểu quyết chấp thuận vợ và con nuôi trở thành thành viên thì người tặng cho có quyền biểu quyết tại Hội đồng thành viên không? Nếu có thì tỷ lệ biểu quyết thông qua tại Hội đồng thành viên là bao nhiêu phần trăm? Hiện tại, chưa có quy định nào của Luật Doanh nghiệp 2005 cấm hay hạn chế quyền biểu quyết của thành viên tặng cho, do đó, thành viên tặng cho vẫn có quyền biểu quyết.

Ngoài ra theo quy định tại Khoản 4 Điều 22 Luật Doanh nghiệp 2005 thì thông tin về thành viên là một phần nội dung Điều lệ công ty nên việc tặng cho dẫn đến làm thay đổi Điều lệ công ty và tất yếu phải được số thành viên sở hữu ít nhất 75% phần vốn góp dự họp chấp thuận. Giả sử thành viên sở hữu hơn 75% phần vốn góp tặng cho vợ và con nuôi thì tỷ lệ này đủ để thành viên tặng cho có thể thông qua việc tặng cho của chính mình tại Hội đồng thành viên mà không cần quan tâm đến ý kiến của các thành viên khác. Khi đó, việc biểu quyết tại Hội đồng thành viên chỉ còn là vấn đề thủ tục.

Trân trọng./.

PHÒNG LUẬT SƯ DOANH NGHIỆP

—————————————

THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ LIÊN QUAN:

1.Tư vấn thay đổi vốn điều lệ Công ty;

2. Tư vấn thay đổi tên công ty, doanh nghiệp;

3. Tư vấn thay đổi thành viên, cổ đông Công ty;

4. Tư vấn thay đổi địa chỉ trụ sở chính cho công ty;

5. Tư vấn đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân;

6. Tư vấn hiệu đính thông tin sai lệch của giấy phép kinh doanh;

7. Tư vấn thay đổi người đại diện theo pháp luật cho Công ty cổ phần;

8. Tư vấn bổ sung ngành nghề kinh doanh, rút ngành nghề kinh doanh;