1, Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự là gì ?

Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.

Xét về bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự. Đây là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng do người này có các điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự.

Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự :

Cũng như TNHS, miễn TNHS thể hiện sự phản ứng (lên án) đối với người có hành vi phạm tội từ phía Nhà nước và xã hội.

– Miễn TNHS phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Chính sách phân hóa này “cũng là một cách hiệu nghiệm của việc thực hiện tốt nguyên tắc không để lọt tội phạm và người phạm tội… việc quy định chế định miễn TNHS… chứng tỏ rằng, con đường cơ bản, hậu quả cơ bản của tội phạm là TNHS, hình phạt và chấp hành hình phạt, còn tha miễn chỉ là trường hợp cá biệt, cụ thể, khi hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi…”

– Miễn TNHS thể hiện nội dung nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo”.

– Miễn TNHS có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với TNHS, nhiều nội dung về miễn TNHS được xuất phát từ TNHS. Ngoài ra, cũng như TNHS, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà hành vi của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự (BLHS), nhưng họ lại có những điều kiện nhất định để được miễn TNHS.

– Người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội, nhưng có thể phải chịu hậu quả bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự được quy định trong các ngành luật tương ứng khác.

Như vậy, không phải bất kỳ trường hợp nào một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, bị xã hội lên án và đáng bị xử lý về hình sự đều phải chịu TNHS, mà có trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng TNHS đối với người đó vẫn có thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội và phù hợp với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, thì theo quy định của pháp luật, họ được miễn TNHS.

>> Xem thêm: Phân loại quy phạm pháp luật như thế nào ? Cho ví dụ ?

2.Hậu quả của việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự

2.1. Hậu quả pháp lý hình sự

Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến TNHS và miễn TNHS cho thấy, người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội như: họ (có thể) không bị truy cứu TNHS, không bị kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và không bị coi là có án tích… Ở đây là họ có thể không bị truy cứu TNHS… chứ không thể khẳng định một cách dứt khoát rằng, miễn TNHS đối với người phạm tội tức là miễn truy cứu TNHS… Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật Việt Nam, giả thiết rằng nếu ở giai đoạn truy tố hoặc xét xử, người phạm tội mới được Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng văn bản (hay bản án) đình chỉ vụ án và miễn TNHS, thì lúc này, việc truy cứu TNHS người đó đã được tiến hành và trải qua một giai đoạn trước đó (giai đoạn điều tra hoặc truy tố), cũng như Cơ quan Điều tra (hoặc Viện kiểm sát) đã đưa người này vào vòng tố tụng rồi.

Như vậy, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, người được miễn TNHS không phải chịu bất kỳ hậu quả gì dưới góc độ pháp lý hình sự. Tính cưỡng chế (trấn áp) về mặt hình sự của chế định miễn TNHS khi áp dụng đối với người phạm tội là không có.

2.2. Hậu quả xã hội – pháp lý

Dưới góc độ pháp lý- xã hội nói chung, người được miễn TNHS phải gánh chịu hậu quả xã hội – pháp lý nhất định. Điều này được thể hiện trên các phương diện:

Về mặt xã hội: người được miễn TNHS bị Nhà nước, xã hội và công luận lên án hành vi phạm tội. Diễn biến, phân tích vụ việc, hành vi và quá trình điều tra họ, tùy thuộc vào các giai đoạn TTHS tương ứng (điều tra, truy tố hay xét xử) được dư luận quan tâm vì họ bị coi là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Do bị xã hội lên án, người được miễn TNHS cũng coi như phải chịu sự tác động, ảnh hưởng đến tâm lý, tinh thần và danh dự của mình và ở một chừng mực nhất định, họ đã bị “hạ thấp vị thế” trước cơ quan, đơn vị, tổ chức và cộng đồng dân cư.

Về mặt pháp lý: người được miễn TNHS không được bồi thường thiệt hại theo quy định của Điều 27 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

3. Bị ung thu thì có được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự không ?

Câu hỏi :

Thưa Luật sư của LVN Group , tôi có một câu hỏi nhờ Luật sư của LVN Group tư vấn giúp tôi

Anh trai tôi đã nghiện rượu 10 năm nay, hơn nữa còn thường xuyên lô đề cơ bạc đánh đập chị dâu tôi và các cháu . Công việc nhà một mình chị dâu tôi lo liệu và tiền học hành cho các cháu . Do quá thua lô đề nên anh tôi đã nảy sinh ý định ăn trộm tài sản của một nhà giàu có trong làng tôi , đêm hôm đó anh tôi có lẻn vào nhà họ , mở tủ ăn cắp số tiền là 50 triệu đồng , khi chưa thực hiện xong thì bị chủ nhà phát hiện và ti hô lên , anh tôi đã dùng dao đâm chết chủ nhà và chạy trốn và nhà coi như không có chuyện gì xảy ra . Sáng hôm sau qua quá trình điều tra của công an đã phát hiện anh tôi chính là thủ phạm đã trộm cắp tài sản và giết chết chủ nhà . Sau khi bị bắt anh tôi có thành khẩn khai báo với cơ quan điều tra. Trong quá trình điều tra anh tôi có bị nôn liên tục và ho ra máu , sốt cao nhiều ngày trời . Cơ quan công an đã đưa anh tôi đi khám và phát hiện anh tôi bị ung thư gan giai đoạn cuối . Tôi muốn hỏi luật sự trường hợp anh tôi có được miễn trách nhiệm hình sự không. Mong luật sớm giải đáp cho tôi . Bác sĩ nói thời gian của anh tôi chỉ còn tính bằng ngày

Trả lời :

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến cho chúng tôi, câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sự của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau :

Căn cứ theo điểm b khoản 2 điều 29 Bộ luật hình sự 2015 quy định

Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự

1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi có quyết định đại xá.

2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;

c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

-> Như vậy trường hợp của anh bạn được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự vì bị bệnh hiểm nghèo

>> Xem thêm: Kiểm tra văn bản pháp luật là gì ? Đặc điểm, ý nghĩa của kiểm tra văn bản pháp luật

4. Miễn trách nhiệm hình sự có tính chất tùy nghi

Thứ nhất, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc được áp dụng cho tất cả các loại tội phạm được quy định tại Điều 9 Bộ luật hình sự khi có đủ căn cứ pháp lý. Căn cứ để xác định do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa là những quy định của Nhà nước bằng văn bản có liên quan đến hành vi phạm tội, các quy định này phải có tính pháp quy.

Tuy nhiên, nội dung này cũng có một số quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng sự thay đổi chính sách được hiểu là sự thay đổi về chính sách hình sự. Quan điểm thứ hai lại cho rằng sự thay đổi chính sách là sự thay đổi về chính sách kinh tế, chính sách xã hội làm cho hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội. Tác giả cho rằng sự thay đổi chính sách, pháp luật để được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp này là sự thay đổi về chính sách hình sự.

Thứ hai, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.

Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc. Theo quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam thì chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền quyết định đại xá (khoản 11 Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Cơ sở để Quốc hội ban hành quyết định đại xá nhân dịp có những sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng của đất nước, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội. Văn bản đại xá do Quốc hội ban hành có hiệu lực đối với tất cả những hành vi phạm tội đã xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ; nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có tiền án.

Thứ ba, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính tùy nghi, không có tính bắt buộc, vì vậy có những quan điểm khác nhau khi áp dụng.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, khi phạm tội họ là người nguy hiểm cho xã hội nhưng sau đó họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội thì được coi là do có sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa để miễn trách nhiệm hình sự cho họ. Như vậy, theo quan điểm này thì chuyển biến tình hình ở đây chính là sự biến đổi cá nhân của người phạm tội chứ không phải chuyển biến của tình hình xã hội.

Quan điểm thứ hai cho rằng cách hiểu như trên là không đúng, vì sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa không phải xem xét chuyển biến về ý thức của người phạm tội, mà phải hiểu rằng bản thân người phạm tội không có sự biến đổi nào, khi phạm tội họ là người như thế nào thì bây giờ họ vẫn như vậy. Do tình hình xã hội thay đổi nên họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, nguyên nhân họ không còn nguy hiểm cho xã hội chính là do tình hình xã hội thay đổi chứ không phải do nỗ lực của bản thân họ.

Tác giả cho rằng hiểu theo quan điểm thứ hai là phù hợp, chính do không nắm chắc yếu tố này nên trong thực tiễn có trường hợp lầm tưởng sự thay đổi của tình hình xã hội với sự nỗ lực của bản thân người phạm tội và cho rằng do có sự thay đổi của người phạm tội nên hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và đã miễn trách nhiệm hình sự, hiểu và áp dụng như thế là sai.

Thứ tư, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự do người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Đây là điểm mới thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. Người mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc các bệnh dễ dẫn đến tử vong, bệnh hiểm nghèo phải nằm trong danh mục do Bộ Y Tế quy định và do Hội đồng giám định y khoa xác định. Nếu người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo nhưng vẫn còn nguy hiểm cho xã hội thì không được miễn trách nhiệm hình sự. Việc đánh giá một người không còn nguy hiểm cho xã hội nữa phải căn cứ vào nhiều yếu tố, phải khách quan toàn diện và hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất tùy nghi, vì vậy có những quan điểm khác nhau khi áp dụng.

Thứ năm, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự vì trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

Thứ sáu, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

5.Trường hợp miễn hình phạt chung

Bên cạnh các điều kiện khác, Điều 54 BLHS không hạn chế quy định loại tội gì để được miễn hình phạt, nhưng đã gián tiếp thông qua Điều 29 BLHS về “Cảnh cáo”: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”. Do đó, đối với trường hợp miễn hình phạt chung, các nhà làm luật nên hạn chế phạm vi loại tội mà người phạm tội có thể được miễn hình phạt, đó là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng để có sự phân hóa hơn nữa trong chính sách hình sự, phân biệt với trường hợp áp dụng hình phạt cảnh cáo, cũng như tránh việc lạm dụng áp dụng đối với cả những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, không bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thực tiễn xét xử, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân. Ngoài ra, cần bổ sung cụm từ “TNHS” sau cụm từ “tình tiết giảm nhẹ” của Điều 54 BLHS nhằm bảo đảm chính xác và chặt chẽ hơn.

 

Trên đây là những tư vấn của công ty chúng tôi, mọi thắc mắc vui lòng liên hệ Luật sư của LVN Group/ chuyên viên tư vấn trực tiếp qua tổng đài 24/7: 1900.0191 để nhận được sự hỗ trợ, tư vấn của Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật hình sự – Công ty luật LVN Group