Người tham gia tố tụng để giúp đỡ người có quyền và lợi ích hợp pháp là người bản thân họ không có quyền và lợi ích gì đối với vụ án, họ chỉ giúp đỡ những người tham gia tố tụng khác như : bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, để những người này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp. luật. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì người tham gia tố tụng để giúp đỡ người có quyền và lợi ích hợp pháp bao gồm: ngứời bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu tư cách pháp lý của những người này.
1 Quy định về Người bào chữa
Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, những người khác được bị’ cáo uỷ quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định để bào chữa cho bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ bị cáo về mặt pháp lý.
Theo quy định tại điều 72 của BLTTHS năm 2015
– Người bào chữa có thể là:Luật sư;Người đại diện của người bị buộc tội;Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Theo đó Luật sư là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn Luật sư của LVN Group nhất định theo quy định của pháp luật .Một người có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được gia nhập đoàn Luật sư của LVN Group: là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; có trình độ Đại học Luật; tốt nghiệp khoá đào tạo Luật sư của LVN Group ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài được pháp luật Việt Nam công nhận, trừ trường hợp được miễn đào tạo theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh Luật sư của LVN Group; có phẩm chất đạo đức tốt; không phải là cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức không được hành nghề Luật sư của LVN Group
Người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội như: cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, người đỡ đầu v.v…
Bào chữa viên nhân dân. Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý
Để bảo đảm sự vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015 quy định những người sau đây không được bào chữa đó là Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Khoản 5 điều 72 BLTTHS năm 2015 quy định Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
Khi xác định quyền và lợi ích của các bị cáo có đối lập nhau hay không cần phải căn cứ vào nhiều tình tiết của vụ án điều quan trọng nhất là đặt ra những giả thiết, nếu gỡ tội cho người này thì có buộc tội cho người khác không ? Hoặc nếu giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo này thì có làm tặng nặng trách nhỉệm hình sự đối với bị cáo khác mà mình cùng bào chữa hay không ?
Để người bào chữa .thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý.Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đầy đủ và rất cụ thể
Người bào chữa có quyền
– Gặp, hỏi người bị buộc tội;
– Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
– Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
– Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
– Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
– Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
-Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
– Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
– Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.
Người bào chữa có nghĩa vụ
– Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo;
– Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
– Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan;
– Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
– Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
– Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
– Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2 Quy định về người bảo vệ quyền lợi cho đương sự
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người được người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhờ và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận nhằm bảo vệ quýền lợi cho mình
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; có quyền cung cấp chứng cứ, đề đạt yêu cầu; được đọc hồ sơ vụ án, ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra; tham gia phiên toà; khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự,bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
Đối với đương sự là người chưa thành niên hoặc ngựời có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.Người bảo vệ quyền lợi của đượng sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật vụ. án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ
Theo điều 84 BLTTHS năm 2015 quy định Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự là Luật sư; Người đại diện; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý.
Bộ luật cũng quy định vè quyền và nghĩa vụ của người bào chữa cho đương sự tại khoản 3 4 như sau
*Về quyền
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Yêu cầu giám định, định giá tài sản;
– Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra;
– Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
– Kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có nghĩa vụ:
– Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án;
– Giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
3 Quy định về người làm chứng
Đây là một trong ba Người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật của vụ án theo đó gồm có người làm chứng, người phiên dịch và người giám định
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự, trong nhiều trường hợp việc xác định sự thật của vụ án lại tuỳ thuộc vào lời khai của người làm chứng, người giám định và người phiên dịch. Những người này tham gia tố tụng không vì quyền và lợi ích của cá nhân mình mà chỉ giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật của vụ án, cũng chính vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự chủ yếu quy định nghĩa vụ đối với họ, thậm chí nếu không thực hiện nghĩa vụ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Người làm chứng là người biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng còn được gọi là nhân chứng mà một số sách báo và nhân dân ta thường dùng.
Người làm chứng phải tực tiếp tham gia tố tụng chứ không thể uỷ quyền cho người khác hoặc có người khác đại diện, vì vậy người làm chứng có thể là trẻ em, người có nhược điểm về thể chất mà vẫn còn khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn. Bộ luật tố tụng hình sự cũng không cấm những người thân thích của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người phiên dịch làm chứng. Bộ luật tố tụng hình sự chỉ cấm người làm chứng là người bào chữa của bị can, bị cáo; người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn
Người làm chứng có mặt theo giấy triệu tập phải khai báo đúng sự thật những điều mình biết được về vụ án và trả lời những câu hỏi được đặt ra. Người làm chứng có thể được hỏi về mọi sự việc cần được xác minh trong vụ án, kể cả nhân thân bị cáo, người bị hại và về quan hệ của mình đối với họ. Quan hệ gia đình, quan hệ thân thích, quan hệ bạn bè cũng như bí mật công tác và bí mật nghề nghiệp không phải là lý do miễn cho người làm chứng khai báo đầy đủ và đúng sự thật. Khi khai báo tại Toà án, người làm chứng có thể ghi chép ra giấy nếu có những sự việc khó có thể nhớ được. Người làm chứng là công chức, viên chức được giữ nguyên lương, được thanh toán tiền tầu xe, tiền lưu trú và các khoản chi phí hợp lý khác trong thời gian làm nhiệm vụ. Người làm chứng không phải là công chức, viên chức còn được hưởng thù lao theo quy định của pháp luật khi làm nhiệm vụ.
Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng, thì phải chịu trách nhiệm theo Điều 308 Bộ luật hình sự, khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của BLHS
4 quy định về Người giám định
Người giám định là người được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định về một hoặc một số vấn đề có liên quan đến việc xác định sự thật của vụ án.
Người giám định có thể là giám định viên tư pháp hoặc người có kiến thức về lĩnh vực cần giám định. Hiện nay, tổ chức giám định tư pháp ở nước ta chưa được tổ chức chặt chẽ thành một hệ thống, vì vậy khi gặp những trường hợp cần giám định, cơ quan tiến hành tố tụng thường liên hệ vổi tổ chức giám định hoặc giám định viên nếu có ở địa phương mình hoặc địa phương khác, nếu không có tổ chức giám định thì mời đích danh người có trình độ chuyên môn về lĩnh vực cần giám định để người này giám định. Tính hợp pháp của kết quả về các lĩnh vực cần giạm đinh cũng chưa có quy định nào bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải lấy đó là căn cứ xác định sự thật vụ án, nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không tin kết quả giám định và trưng cầu giám định lại hoặc người tham gia tố tụng không tin vào kết quả giám định, yêu cầu giám định ở cấp cao hơn.
Theo quy định tại khoản 2 điều 68 BLTTHS năm 2015 Người giám định có quyền: Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định; Yêu cầu cơ quan trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định cung cấp tài liệu cần thiết cho việc kết luận; Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định; Từ chối thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;Ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định do tập thể giám định tiến hành;Các quyền khác theo quy định của Luật giám định tư pháp
Người giám định tiến hành giám định bằng kiến thức và phương pháp riêng, cơ quan tiến hành tố tụng và bất cứ ai đều không được can thiệp vào công việc chuyên môn của người giám định. Người giám định được hưởng phụ cấp tuỳ theo tính chất của từng vụ việc. Hiện nay, phụ cấp (lệ phí giám định) do người trưng cầu phải chịu. Người tham gia tố tụng như: bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và đại diện hợp pháp của những người này cũng có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định, nếu được cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý thì người yêu cầu phải chịu lệ phí giám định
Người giám định có nghãi vụ Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện giám định; Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định: nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án
Khi có những vấn đề cần giám định, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án trưng cầu giám định. Quyết định trưng cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được trưng cầu hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định . Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu giám định. Điều tra viên có quyền tham dự giám định, nhưng phải báo trước cho người giám định biết. Nội dung kết luận giám định phải ghi rõ: thời gian, địa điểm tiến hành giám định; họ tên, trình độ văn hoá, trình độ chuyến môn của người giám định; những người tham gia khi tiến hành giám định; những dấu vết, đồ vật, tài liệu và tất cả những gì đã được giám định, những phương pháp được áp dụng và giải đáp những vấn đề đã được đặt ra có căn cứ cụ thể.
Để làm sáng tỏ hoặc bổ sung nội dung kết luận giám định, cơ quan điều tra có thể hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết và có thể quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Sau khi đã tiến hành giám định, nếu bị can, bị cáo yêu cầu thì được thông báo về nội dung kết luận giám định. BỊ can, bị cáo được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, những yêu cầu này được ghi vào biên bản. Trong trường hợp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án không chấp nhận yêu cầu của bị can, bị cáo thì phải nêu rõ lý do và báo cho bị can, bị cáo biết. Việc giám định lại phải do người giám định khác tiến hành
5 Quy định về Người phiên dịch
Theo quy dịnh tại điều 70 BLTTHS năm 2015 thì
Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt.
Người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện đúng nhiệm vụ được giao; nếu dịch gian dôi thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối theo Phiên dịch, dịch thuật trung thực. Nếu phiên dịch, dịch thuật gian dối thì người phiên dịch, người dịch thuật phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự; Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi phiên dịch, dịch thuật; Phải cam đoan trước cơ quan đã yêu cầu về việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu: đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người trên hoặc của bị can, bị cáo hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng không vô tư trong khi làm nhiệm vụ; đã tiến hành tố tụng với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định trong vụ án đó.
Mọi vướng mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến bài viết , Hãy gọi ngay: 1900.0191 để đượcLuật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group
Công Ty Luật LVN Group xin cảm ơn!!