1. Nhận thức khoa học là gì?
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ
2. Hoạt động xét xử là gì?
“Hoạt động xét xử là hoạt động của các Tòa án được tổ chức và tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định và theo một trật tự do luật định nhằm xem xét và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân, gia đình và những vụ việc khác do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân” (Từ điển Bách khoa toàn thư)
3. Mục đích của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử
Hoạt động nhận thức là bộ phận, một mặt hoạt động rất cơ bản cần thiết, không thể thiếu được của hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. Bất kỳ một chủ thể nào của hoạt động tư pháp (Điều tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân…) khi tiến hành nhiệm vụ của mình đều phải sử dụng hoạt động nhận thức. Trong hoạt động xét xử, hoạt động nhận thức nhằm thực hiện các mục đích sau: Phân tích, đánh giá các chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án; tìm hiểu động cơ, mục đích của người tham gia tố tụng; nắm bắt được đặc điểm tâm lý của những người tham gia tố tụng; đưa ra cách thức, phương pháp tác động tâm lý đến những người tham gia tố tụng;
4. Đặc điểm của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử
Hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử được tiến hành để nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập và kiểm tra tính khách quan, tính hợp pháp của các thông tin đó. Để nhận thức được toàn bộ các thông tin về vụ án, người cán bộ xét xử phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án, có thể điều tra bổ sung , xác minh thu thập chứng cứ theo luật định và thẩm vấn công khai các đương sự liên quan, thẩm tra các tại liệu tại phiên tòa; qua đó kiểm tra xem xét lại các các thông tin đã được thu thập một cách khách quan, toàn diện, công khai.
Chủ thể tiến hành hoạt động nhận thức (các thành viên Hội đồng xét xử): Quá trình nhận thức trong hoạt động xét xử mang tính chủ động cao hơn so với một số giai đoạn tố tụng trước. Nếu như giai đoạn điều tra, điều tra viên thu thập chứng cứ về vụ án, thì mô hình vụ án chưa được xác định. Điều tra viên nhận thức các thông tin về vụ án chưa có định hướng rõ ràng. Song điều kiện nhận thức của người làm công tác xét xử hoàn toàn khác. Khi tiến hành nhận thức về vụ án người làm công tác xét xử đã có được mô hình chính xác về vụ án do bên cơ quan điều tra mô tả, viện kiểm sát truy tố. Do vậy, họ đã hình dung được diễn biến vụ án, các tình tiết cụ thể của vụ án. Điều này là căn cứ giúp người làm công tác xét xử có sự định hướng trong việc xử lý các thông tin.
Khối lượng thông tin mà người làm công tác xét xử phải xử lý giảm đáng kể so với người làm công tác điều tra. Cán bộ xét xử chỉ xử lý thông tin có liên quan đến vụ án, còn những thông tin nằm ngoài vụ án đã được cán bộ điều tra sàng lọc và lược bỏ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng xét xử trong việc phân tích và đánh giá thông tin. Tuy nhiên, trong một số trường hợp do sự chủ quan trong công tác đánh giá thông tin, chứng cứ của cơ quan điều tra, Viện kiếm sát mà một số thông tin quan trọng đã không được xem xét, loại bỏ. Hậu quả dẫn đến sự hạn chế thông tin đối với Hội đồng xét xử, làm giảm tính chính xác trong việc đánh giá vụ án. Để khắc phục hạn chế này, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện để các đương sự có liên quan cung cấp đầy đủ các thông tin về vụ án.
Nhận thức trong giai đoạn xét xử mang tính gián tiếp cao. Nếu như ở giai đoạn điều tra vụ án, cán bộ điều tra được tiếp xúc trực tiếp với hiện trường, thấy hậu quả phạm tội, xem xét các dấu vết còn lại trên hiện trường thì người làm công tác xét xử nhận thức vụ án chỉ dựa vào hồ sơ của cơ quan điều tra và lời khai của đương sự. Như vậy, các thông tin được thu thập chủ yếu thông qua mô tả của chủ thể khác, thể hiện tính gián tiếp, cần có tư duy để xây dựng lên mô hình diễn biến toán bộ vụ án. Vì thế, kết quả nhận thức của Hội đồng xét xử phụ thuộc rất nhiều vào tính khoa học, chi tiết, chặt chẽ, logic của hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra lập ra.
Từ quá trình nhận thức Hội đồng xét xử phải xác định được sự tương quan giữa các tình tiết vụ án và các điều luật cụ thể được áp dụng. Nhiệm vụ của người làm công tác xét xử là phải nhận thức chính xác tình tiết vụ án và định tội đối với bị cáo, từ đó xác định mức hình phạt cụ thể, phù hợp. Để đưa ra bản án chuẩn xác, thuyết phục, đòi hỏi người cán bộ xét xử phải xác định cụ thể, chi tiết sự tương quan giữa từng tình tiết, từng dấu hiệu của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xác định khung hình phạt, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm…Bên cạnh đó, người làm công tác xét xử phải xem xét việc áp dụng các điều luật mà Viện kiểm sát truy tố đã phù hợp hay chưa phù hợp để đưa ra quyết định chính xác. Nếu xác định không chính xác sự tương quan giữa hành vi phạm tội và quy định của pháp luật sẽ dẫn tới việc định tội và mức hình phạt không chính xác, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác xét xử.
Hoạt động nhận thức của Hội đồng xét xử bị hạn chế về thời gian. Theo quy định pháp luật, thời gian cho việc chuẩn bị xét xử đối với các vụ án ít nghiêm trọng là không quá 30 ngày, đối với vụ án nghiêm trọng không quá 45 ngày, đối với vụ án rất nghiêm trọng không quá 2 tháng, đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng không quá 3 tháng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án.
5. Vai trò của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
Quá trình nhận thức là quá trình phát triển toàn diện tất cả các thành phần của hoạt động tư pháp. Trong cấu trúc tâm lý của hoạt động tư pháp, thì hoạt động nhận thức đóng vai trò là một trong những dạng hoạt động cơ bản, đạt được các mục đích của hoạt động tư pháp là thông qua việc nhận thức một cách toàn diện, đúng đắn sự thật khách quan của vụ án cùng với các hoạt động thiết kế, giáo dục nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức xã hội và của công dân. Ngoài ra, hoạt động nhận thức còn đóng vai trò là một hoạt động trung tâm, là hoạt động cơ sở cho các hoạt động tâm lý khác trong cấu trúc của hoạt động tư pháp. Bởi hoạt động nhận thức là hoạt động đầu tiên, nó là tiền đề, căn cứ khởi đầu trong cấu trúc của hoạt động tư pháp. Nó là cơ sở để thực hiện các hoạt động khác trong hoạt động tư pháp, nếu không có hoạt động nhận thức thì các hoạt động còn lại trong cấu trúc của hoạt động tâm lý thì khó mà thực hiện được hoặc nếu nhận thức mà không đúng thì đương nhiên các hoạt động còn lại sẽ sai lầm.
Tóm lại, hoạt động nhận thức là một bộ phận, một mặt hoạt động rất cơ bản, rất cần thiết không thể thiếu được của hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. Bất kỳ một chủ thể nào của hoạt động xét xử khi thực hiện nhiệm vụ của mình đều phải sử dụng hoạt động nhận thức. Khi có một nhận thức đúng đắn về vụ án hình sự thì mới có thể tiến hành những hoạt động thu thập, phân tích, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, qua đó mới có thể ra các quyết định đúng đắn, những biện pháp giáo dục hợp lý.
Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự mà Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án và nhân danh Nhà nước mà ra bản án. Nhiệm vụ lớn nhất của giai đoạn xét xử là ra được bản án, quyết định bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động nhận thức là cơ sở để thực hiện các hoạt động tâm lý khác trong hoạt động xét xử. Mục đích cơ bản của hoạt động nhận thức trong xét xử là nghiên cứu, kiểm tra, xác minh lại những chứng cứ đã phản ánh trong tài liệu điều tra và đánh giá, để hiểu rõ bản chất khách quan của vụ án, đưa ra bản án, quyết định đúng đắn. Do vậy, hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử của tòa án có nhiều điểm khác biệt hơn so với hoạt động nhận thức ở giai đoạn điều tra. Bản án quyết định của Tòa án đưa ra, phải đảm bảo tính nghiêm khắc nhưng cũng có tính giáo dục để mọi người ý thức tôn trọng pháp luật, tạo thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi người tin rằng bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị xã hội lên án, giáo dục mọi công dân có ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Khi một hành vi phạm tội xảy ra, trên cơ sở nhận thức được tính nguy hiểm của tội phạm gây ra, cần phải giáo dục cảm hóa người phạm tội, hình thành ở họ thái độ ăn năn, hối hận, thái độ tôn trọng pháp luật; giáo dục ý thức, chấp hành pháp luật cho các công dân; răn đe, ngăn ngừa tội phạm đối với những thành viên; giáo dục tinh thần trách nhiệm với lãnh đạo, tập thể có thiếu sót để tạo ra tình trạng tội phạm thì các thành viên Hội đồng xét xử có thể thực hiện các hoạt động giáo dục. Hoạt động nhận thức ở giai đoạn xét xử được thực hiện bởi các thành viên Hội đồng xét xử nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập được trong giai đoạn điều tra thông qua hồ sơ và hoạt động thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hoạt động nhận thức mang tính chủ động, ít căng thẳng hơn so với hoạt động nhận thức ở giai đoạn điều tra do chủ thể nhận thức đã được tiếp cận với lượng thông tin ít hơn, cô đọng hơn, đã được sàng lọc ở giai đoạn điều tra, truy tố.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tâm lí học tư pháp, Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
2. Bộ luật Tố Tụng Hình Sự của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2015.
3. Nhận thức; Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
4. Vai trò của hoạt động nhận thức trong tâm lý học và trong xét xử các vụ án Hình sự; Ths. Nguyễn Thị Minh – Trang thông tin điện tử Học viện Tòa án.