1. Nhiệm vụ của luật hình sự 

Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, Luật hình sự có một nhiệm vụ khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm mà thực tiễn đã đặt ra. Chẳng hạn, trong giai đoạn 1945 – 1954, để đảm bảo nhiệm vụ lịch sử, pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn này đã đảm nhận nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là bằng mọi cách phải bảo vệ chính quyền còn non trẻ mới được thiết lập. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật hình sự đã được Nhà nước sử dụng như là công cụ sắc bén để đè bẹp sự phản kháng và âm mưu lật đổ của các thế lực chống đối. Chúng ta có thể thấy được điều đó thông qua hàng lọat các văn bản pháp luật hình sự ra đời trong giai đoạn này. Trong giai đoạn 1954 – 1975, nhiệm vụ của luật hình sự đã thay đổi. Trong giai đoạn này, nước ta đã bị chia thành hai miền Nam, Bắc. Các nhiệm vụ cấp bách cần tập trung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp 1959 nêu rõ: “Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất đất nước”. Vì vậy, khi nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự trong giai đoạn này, chúng ta có thể tìm thấy các quy định về tội phạm và hình phạt đáp ứng cho việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Có hai loại nhiệm vụ là nhiệm vụ chiến lược và nhiệm vụ trước mắt. Các nhiệm vụ chiến lược của Luật hình sự được xác định trên cơ sở nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước trong một khoản thời gian dài và khá ổn định. Các nhiệm vụ cấp bách, trước mắt của Luật hình sự là nhiệm vụ nổi lên trong từng thời điểm nhất định của đời sống đất nước. Cả hai loại nhiệm vụ trên luôn luôn gắn bó và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt là tiền đề cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược. Trái lại, chỉ trên cơ sở nhiệm vụ chiến lược mới xác định được nhanh chóng nhiệm vụ trước mắt. Trong giai đoạn hiện nay, pháp luật hình sự đã được xác định lại nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của đất nước trong xu thế mới. Tại Điều 1 – Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định : “Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội “.

2. Nguyên tắc pháp chế trong nguyên tắc của luật hình sự 

Nguyên tắc pháp chế là một nguyên tắc hết sức quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng và đổi mới pháp luật ở Việt Nam. Nói đến pháp chế tức là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật từ phía Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội và của công dân. Nguyên tắc pháp chế có nguồn gốc từ nguyên lý không có tội nếu không có luật (La tinh: Nullum crimen sine lege”. Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc pháp chế được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Nghĩa là những gì có thể là cơ sở của trách nhiệm hình sự, của việc áp dụng hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cũng như việc áp dụng mọi hình thức trách nhiệm hình sự với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp luật hình sự quy định. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế cụ thể là: – Về mặt lập pháp: việc sửa đổi, bổ sung, quy định tội phạm mới hay xoá bỏ một tội phạm phải được tiến hành một cách hợp pháp, theo đúng thủ tục luật định. Theo cơ chế này, mọi tội phạm và hình phạt phải được Luật hình sự quy định, “có luật, có tội”. Ngoài ra, nguyên tắc pháp chế còn đòi hỏi pháp luật hình sự phải được xây dựng trên những cơ sở khoa học, được xây dựng một cách hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các quy định của Luật hình sự phải được xây dựng một cách cụ thể, chính xác với các dấu hiệu của từng hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của nó. – Về mặt áp dụng pháp luật: Nhà nước không chấp nhận một bản án hình sự về một tội nào đó, nếu như tội này không được quy định trong Luật hình sự hiện hành. Việc xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không để oan người vô tội. Hình phạt mà Toà án tuyên cho người phạm tội phải phù hợp với các quy định của Luật hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo đúng và đầy đủ các thủ tục luật định. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi sự chính xác và thống nhất trong việc áp dụng Luật hình sự, trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và của bản thân người phạm tội. Điều đó có nghĩa là trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam, pháp luật hình sự phải được áp dụng như nhau, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, thành phần xã hội… của người phạm tội. Pháp luật phải được giải thích cụ thể bởi các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền nhằm tránh sự hiểu và vận dụng khác nhau đối với cùng một quy định nhưng ở những điều kiện khác nhau. Một nội dung quan trọng không kém nữa là không áp dụng pháp luật tương tự. – Đối với công dân, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mỗi người dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách triệt để, không ngừng tăng cường cảnh giác cao độ, nâng cao ý thức pháp luật, tích cực đấu tranh phòng và chống tội phạm.

3. Nguyên tắc dân chủ 

Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào quá trình quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Đây là một nguyên tắc hiến định. Trong Luật hình sự, nội dung của nguyên tắc dân chủ thể hiện ở các điểm sau: – Luật hình sự bảo vệ và tôn trọng các quyền dân chủ của công dân trong tất cả các mặt của đời sống xã hội, kiên quyết xử lý các hành vi xâm phạm những quyền dân chủ của công dân. Quyền lợi của công dân đều được bảo vệ như nhau, không phân biệt nòi giống, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, tình hình kinh tế, tài sản; không quy định những đặc quyền, đặc lợi cho riêng một đối tượng, một tầng lớp, giai cấp nào. – Luật hình sự bảo đảm cho nhân dân lao động tự mình hay thông qua các tổ chức xã hội tham gia vào việc xây dựng và áp dụng Luật hình sự, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. – Luật hình sự coi việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm là sự nghiệp của toàn dân. Bộ luật hình sự quy định nội dung này tại Điều 4. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn có nhiều quy định khác tạo cơ sở pháp lý hình sự cho sự tham gia của mọi người dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Chẳng hạn như quy định về phòng vệ chính đáng (Điều 15), tình thế cấp thiết (Điều 16), việc thực hiện hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 31), án treo (Điều 60)…v.v… Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Cùng với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc này góp phần phát huy hiệu quả của Luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm, duy trì kỷ cương và công lý xã hội. Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa góp phần định hướng phát triển của Luật hình sự nói chung và hoạch định các chính sách hình sự nói riêng.

4.Nguyên tắc nhân đạo 

Nhân đạo là đạo làm người. Đạo làm người thể hiện ở lòng thương yêu, với ý thức tôn trọng các giá trị danh dự, nhân phẩm của con người, không làm đau đớn con người. Pháp luật hình sự Việt Nam phản ánh ý thức pháp luật các quan niệm đạo đức của dân tộc ta, có mục đích, nội dung nhân đạo sâu sắc và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp rất nhân đạo. Trước hết, trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo luôn được thể hiện rõ nét trong các chính sách hình sự của Nhà nước, trong các quy định của Bộ luật hình sự. Nội dung này thể hiện cụ thể tại Điều 3 của Bộ luật hình sự. Đối với kẻ phạm tội, việc áp dụng hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam chủ yếu là nhằm mục đích cải tạo, giáo dục kẻ phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam không nhằm gây đau đớn về thể xác và không nhằm hạ thấp phẩm giá của con người. Cụ thể, nguyên tắc nhân đạo có các nội dung sau: – Luật hình sự Việt Nam khoan hồng với những người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. – Luật hình sự không có mục đích trả thù, hạ thấp nhân phẩm người phạm tội mà nhằm tạo điều kiện để họ được cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, sống lương thiện. – Luật hình sự Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo)…v.v… – Trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự Việt Nam có nhiều loại hình phạt không tước tự do như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ… Mặt thứ hai của nguyên tắc nhân đạo là phải nghiêm trị đối với những người phạm tội là những người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố…Vì vậy, Bộ luật hình sự đã quy định các hình phạt nghiêm khắc như tù chung thân, tử hình. Tuy nhiên, các hình phạt này cũng chỉ được phép áp dụng trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất định: hình phạt tù chung thân và tử hình không được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, hình phạt tử hình không được phép áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi…

5. Khoa học hình sự và các ngành khoa học có liên quan 

Khoa học Luật hình sự là một ngành khoa học luật, nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện lý luận về tội phạm, hình phạt bao gồm các quan điểm, tư tưởng, quan niệm pháp lý hình sự cơ bản về Luật hình sự. Khoa học Luật hình sự là một bộ phận hợp thành của khoa học pháp lý, là một trong những ngành khoa học xã hội. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học Luật hình sự bao gồm các lĩnh vực sau: – Tội phạm và hình phạt với tư cách là những hiện tượng pháp lý – xã hội; – Những chế định pháp lý hình sự khác có liên quan đến tội phạm và hình phạt; – Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tư pháp hình sự; – Các nguyên tắc của Luật hình sự; – Đạo luật hình sự, tính quyết định xã hội và hiệu quả của nó, các quy luật và khuynh hướng phát triển của luật hình sự Việt Nam và vấn đề hoàn thiện pháp luật hình sự; – Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới. Qua nghiên cứu pháp luật hình sự của các nước trên thế giới, khoa học Luật hình sự Việt Nam tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm và thành tựu trong hoạt động xây dựng, nghiên cứu và áp dụng pháp luật hình sự. Khoa học Luật hình sự Việt Nam sử dụng các phương pháp nghiên cứu dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cụ thể như: phương pháp thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp…Vì vậy, không phải khoa học Luật hình sự nghiên cứu về tội phạm, hình phạt và những vấn đề có liên quan một cách trừu tượng mà trái lại, các đối tượng này được nghiên cứu với tính cách là những hiện tượng xã hội có mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ với các điều kiện cụ thể của xã hội. Từ đó, khoa học Luật hình sự lý giải được các nguyên nhân, nhân tố, tiền đề quyết định việc ban hành đối với từng nội dung, chế định pháp luật hình sự trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Nội dung và hình thức của các khái niệm pháp lý hình sự được khoa học Luật hình sự làm sáng tỏ dựa trên các phạm trù, quy luật, luận điểm của triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tội phạm và hình phạt. Khoa học Luật hình sự có mối liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học khác liên quan đến việc nghiên cứu các vấn đề về đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đó là các ngành khoa học sau: Tội phạm học; Thống kê hình sự; Khoa học điều tra hình sự; Giám định pháp y; Tâm thần học tư pháp; Tâm lý học tư pháp. Có thể nói, khoa học Luật hình sự có cùng nhiệm vụ với các ngành khoa học nói trên. Tuy nhiên, khoa học Luật hình sự lại có đối tượng nghiên cứu độc lập với các ngành khoa học này. Chẳng hạn, khi nghiên cứu tội phạm, khoa học Luật hình sự nghiên cứu khái niệm, bản chất, đặc điểm pháp lý của tội phạm dựa trên các quy phạm pháp luật hình sự. Trong khi đó, tội phạm học lại nghiên cứu tội phạm ở góc độ xã hội đó là tình hình tội phạm, các nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa tội phạm. Cho nên, khi nghiên cứu đối tượng, khoa học Luật hình sự sử dụng phương pháp logic. Trong khi đó, tội phạm học sử dụng các phương pháp xã hội, như điều tra xã hội học, thống kê xã hội học…

Luật LVN Group( sưu tầm và biên tập)