“Tội cưỡng dâm” Điều 143 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đã bổ sung hành vi phạm tội “miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”. Sửa hình phạt tù mức khởi điểm từ 06 tháng nâng lên thành 01 năm và bổ sung tình tiết tăng nặng định khung
Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191
1. Khái quát chung
Cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
“Tội cưỡng dâm” Điều 143 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đã bổ sung hành vi phạm tội “miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”. Sửa hình phạt tù mức khởi điểm từ 06 tháng nâng lên thành 01 năm và bổ sung tình tiết tăng nặng định khung “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%”.
Điểm mới của tội phạm này được sửa đổi tháng 6/2017 so với BLHS năm 2015:
– Khoản 2 sửa điểm g “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” thành “gây rối loạn tâm thần và hàh vi của nạn nhân từ 31% đến 60%” và gộp tình tiết e, g làm một tình tiết chung: “Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%”.
– Khoản 3 sửa điểm b “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên” và gộp tình tiết a, b làm một tình tiết chung: “Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”.
2. Tội cưỡng dâm được quy định như thế nào trong Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017
Tội cưỡng dâm được quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:
Điều 143. Tội cưỡng dâmỉ. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mĩnh hoặc ngườỉ đang ở trong tĩnh trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao câu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vỉ quan hệ tĩnh dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:a) Nhiều người cưỡng dâm một người;b) Phạm tội 02 lần trở lên;c) Đối với 02 người trở lên;d) Có tính chất loạn luân;đ) Làm nạn nhân có thai;e) Gãy thương tích, gây ton hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thế từ 31% đến 60%o;g) Tái phạm nguy hiểm.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vỉ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%) trở lên;b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.4. Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hĩnh phạt quy định tại các khoản đó.5. Người phạm tội còn có thể bị cẩm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Bình luận tội cưỡng dâm
Điều luật gồm 5 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội cưỡng dâm; các khoản 2, 3,4 quy định các trường họp phạm tội tăng nặng và khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung.
3.1 Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Điều luật không mô tả dấu hiệu đặc biệt về giới tính của chủ thể ở tội cưỡng dâm. Theo đó, chủ thể của tội này là chủ thể bình thường, có thể là nam hoặc nữ và theo Điều 12 BLHS, là người từ đủ 14 tuổi trở lên khi hành vi phạm tội thuộc các khoản 2, 3 và 4 của điều luật hoặc là người từ đủ 16 tuổi trở lên khi hành vi phạm tội thuộc khoản 1 của điều luật.
3.2 Dấu hiệu hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội cưỡng dâm được quy định là hành vi “khiến” (ép buộc) và hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác. Trong đó, hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác là “kết quả” của hành vi “khiến” (ép buộc).
Nạn nhân (đối tượng tác động) của hành vi khách quan là người bị lệ thuộc hoặc là người đang ở trong tình trạng quẫn bách.
Quan hệ lệ thuộc ở đây có thể là quan hệ lệ thuộc về mặt công việc, về mặt kinh tế, về mặt tín ngưỡng hay gia đình…
Người đang ở trong tình trạng quẫn bách là người đang ở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, tự mình không thể hoặc khó có thể khắc phục được mà đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của người khác như trường hợp người thân trong gia đình bị mắc bệnh hiểm nghèo nên cần số tiền lớn cho chi phí y tế nhưng lại đang trong tình trạng túng thiếu nghiêm trọng…
Hành vi “khiến” (ép buộc) được quy định ở tội phạm này được hiểu là hành vi khống chế tư tưởng bằng việc lợi dụng quan hệ lệ thuộc hoặc hoàn cảnh quẫn bách của nạn nhân để buộc họ phải miễn cưỡng theo ý mình (miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác). Thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để khống chế nạn nhân có thể là lời đe dọa hoặc hứa hẹn. Người phạm tội có thể lợi dụng quan hệ lệ thuộc, lợi dụng uy thế của mình dọa sẽ gây thiệt hại cho người bị lệ thuộc nếu như không chịu giao cấu hoặc không chịu thực hiện hành vi quan hệ tình dục. Ví dụ: Dọa chuyển nơi làm việc, dọa không nuôi dưỡng nữa, dọa hủy hợp đồng lao động…
Ở đây cần chú ý: Hành vi đe dọa ở tội cưỡng dâm chưa đến mức làm người bị đe dọa tê liệt ý chí, không dám kháng cự như ở tội hiếp dâm. Người bị đe dọa chỉ bị khống chế tư tưởng; họ vẫn có khả năng phản kháng nhưng đã (miễn cưỡng) chịu giao cấu hoặc chịu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Người phạm tội cưỡng dâm cũng có thể lợi dụng quan hệ lệ thuộc, lợi dụng uy thế của mình hoặc lợi dụng nạn nhân đang trong tình trạng quẫn bách hứa hẹn mang lại quyền lợi nào đó cho họ nếu chấp nhận việc giao cấu hoặc chấp nhận thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Ví dụ: Hứa sẽ cho chuyển nơi làm việc…
Ở đây cũng cần chú ý: Sự hứa hẹn phải cỏ tính chất là sự khống chế tư tưởng buộc họ phải miễn cưỡng chấp nhận việc giao cấu hoặc chấp nhận thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Những trường hợp hứa hẹn khác không thuộc phạm vi của tội phạm này.
3.3 Dấu hiệu lỗi của chủ thể
Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi cố ý. Người phạm tội biết nạn nhân là người lệ thuộc mình hoặc biết họ là người đang trong tình trạng quẫn bách cũng như biết hành vi đe dọa hay hứa hẹn của mình là thủ đoạn lợi dụng quan hệ lệ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân để buộc họ phải miễn cưỡng cho giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
3.4 Dấu hiệu nạn nhân của tội phạm .
Từ bình luận về chủ thể của tội cưỡng dâm, có thể suy ra nạn nhân của tội phạm này có thể là nữ hoặc nam. Khoản 1 của điều luật không trực tiếp xác định độ tuổi của nạn nhân nhưng từ nội dung khoản 4 của điều luật cũng như từ nội dung Điều 144 BLHS có thể xác định, nạn nhân của tội cưỡng dâm là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Người dưới 16 tuổi có thể là nạn nhân của tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 144 BLHS).
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm (cho trường họp nạn nhân từ đủ 18 tuổi trở lên). Khung hình phạt cho trường họp nạn nhân từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được quy định tại khoản 4 của điều luật.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm được áp cho trường họp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Nhiều người cưỡng dâm một người: Đây là trường hợp đồng phạm cưỡng dâm mà có nhiều người thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với cùng nạn nhân.
– Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là trường họp chủ thể đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội cưỡng dâm khác nhau đối với cùng 01 nạn nhân hoặc đối với các nạn nhân khác nhau.
– (Phạm tội) đổi với 02 người trở lên: Đây là trường họp chủ thể phạm tội cưỡng dâm đối với nhiều nạn nhân khác nhau.
– (Phạm tội) có tính chất loạn luân: Đây là trường hợp giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha và mối quan hệ đặc biệt này làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội nên cũng làm tăng trách nhiệm hình sự.
– (Phạm tội) làm nạn nhân có thai: Đây là trường họp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì nạn nhân còn phải chịu thêm tác động tâm lý nhìn chung là không tích cực do việc mang thai.
– Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thê từ 31% đến 60%: Đây là trường họp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vi phạm tội còn xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của nạn nhân.
– Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của tái phạm nguy hiểm được quy định tại Điều 53 BLHS. Tình tiết nhân thân này của chủ thể làm tăng trách nhiệm hình sự của họ.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 10 năm đến 18 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%) trở lên: Đây là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vi phạm tội còn xâm phạm rất nghiêm trọng đến sức khỏe của nạn nhân.
-.(Người phạm tội) biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác): Đây là trường họp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vi phạm tội còn có thể làm cho nạn nhân bị lây nhiễm HIV, đe dọa đến tính mạng của họ.
– (Phạm tội) làm nạn nhân chết hoặc tự sát: Trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân chết là trường hợp đã gây ra hậu quả nạn nhân chết và lỗi của người phạm tội đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Nếu người phạm tội có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người thì hành vĩ phạm tội của họ cấu thành tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội cưỡng dâm. Trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát là trường hợp nạn nhân do bị cưỡng dâm nên đã có líành vi tự tước đoạt tính mạng của mình. Giữa việc bị cưỡng dâm và việc tự sát có mối QHNQ với nhau.
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt cho trường hợp nạn nhân dưới 18 tuổi nhưng đủ 16 tuổi có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung hình phạt này chỉ được áp dụng khi không có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật. Khi có tình tiết này thì áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3.
Khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group