Khi xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm cần chú ý các vấn đề sau:

Thứ nhất: Đối với những tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt thì chỉ cần người thực hành có những đặc điểm của chủ thể đặc biệt; còn những người đồng phạm khác không cần có dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.

Thứ hai: Việc xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của tất cả những người đồng phạm là dựa vào hành vi khách quan của người thực hành cũng như hậu quả của người thực hành gây ra. Điều này đã được làm rõ trong nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Nếu vì một lý do khách quan nào đó mà tội phạm không được thực hiện đến cùng thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào, tất cả những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự đến giai đoạn đó. Nếu người bị xúi giục không nghe theo lòi xúi giục, sự xúi giục không có kết quả thì chỉ riêng người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã xúigiục và ở giai đoạn chuẩn bị. Nếu người giúp sức giúp người thực hành thực hiện tội phạm nhưng người này không thực hiện tội phạm hoặc họ không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ định giúp sức và ở giai đoạn chuẩn bị.

Thứ ba, vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm.

Đối với người thực hành được xem xét theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đối với người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi người thực hành chưa thực hiện tội phạm. Đồng thời những người đó phải có hành vi tích cực cản trở có hiệu quả người thực hành thực hiện tội phạm.

Thứ tư, tại Khoản 4 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xác định những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành, có nghĩa rằng nếu người thực hành thực hiện tội phạm vượt ra ngoài sự bàn bạc, thông nhất từ đầu của những người đồng phạm, thì chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của mình.

Luật LVN Group phân tích chi tiết hơn vấn đề trên như sau:

 

1. Đồng phạm là gì?

Đồng phạm là một trong những thuật ngữ vô cùng quen thuộc đối với mỗi chúng ta, và được quy định một cách cụ thể trong Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó thì tại khoản 1 điều 17 có quy định đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Như vậy thì căn cứ theo quy định trên thì đồng phạm sẽ gồm các dấu hiệu như là sự tham gia của hai người trở lên và những người đó cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 

Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. 

– Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm

– Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm

– Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm

– Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. 

Bên cạnh đó thì người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. 

Trong vụ đồng phạm có thể là có đủ các loại hành vi tham gia nhưng không đòi hỏi nhất thiết phải có đủ 04 loại hành vi tham gia. Người đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi hoặc có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu hoặc có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra những chưa kết thúc quá trình phạm tội. 

Hậu quả của thiệt hại là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người đồng phạm tham gia vào việc thực hiện tội phạm mang lại. Giữa hành vi của những người tham gia và hậu quả thiệt hại của tội phạm thì đều có mối quan hệ nhân quả với nhau. 

 

2. Những vấn đề cần lưu ý khi xác định trách nhiệm hình sự của những người trong đồng phạm. 

2.1. Chủ thể đặc biệt trong đồng phạm. 

Ngay ở cái tên của nó thì trong một số tội phạm thì đòi hỏi chủ thể đặc biệt thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có đặc điểm này thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không thể trở thành chủ thể của tội phạm đó được. Hay nói cách khác dễ hiểu hơn thì chủ thể đặc biệt thì cần người thực hành có những đặc điểm đặc biệt đó còn những người đồng phạm khác thì không cần đòi hỏi có những đặc điểm của chủ thể đặc biệt. 

Ví dụ thì liên quan đến tội giả mạo trong công tác thì người thực hành là người có chức vụ quyền hạn. Còn những người đồng phạm khác có thể là bất cứ người nào. 

Hay là trong một vụ án tham ô tài sản thì người thực hành là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản, còn những người đồng phạm khác ( người tổ chức, người xúi giục, giúp sức) có thể là bất kì một người nào. 

 

2.2. Xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm 

Liên quan đến việc xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm cũng là một trong những vấn đề cần quan tâm và nắm vững để có thể xác định được trách nhiệm hình sự một cách đúng đắn nhất có thể. Nếu như mà bản thân người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân khách quan thì người thực hiện hành vi phạm tội đến giai đoạn nào thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó. Người đồng phạm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong phạm vi họ thực hiện. Nếu người bị xúi giục không nghe theo sự xúi giục thì chỉ riêng người có hành vi xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã xúi giục ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. 

Nếu như người giúp sức giúp người thực hành thực hiện tội phạm nhưng người này không thực hiện tội phạm hoặc họ không sử dụng sự giúp sức thì người này phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ định giúp sức và ở giai đoạn chuẩn bị. 

 

2.3. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là sự tự nguyện từ bỏ việc thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà người thực hiện hành vi đã bắt đầu. Và họ biết là có khả năng làm việc đó và không có gì ngăn cản họ thực hiện tội phạm. Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được hiểu là người phạm tội tự nguyện chấm dứt hành vi phạm tội theo ý chí riêng của bản thân họ và không chịu tác động bởi người khác. 

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là hành vi dứt khoát, tự nguyện. Và việc chấm dứt việc phạm tội này phải được thực hiện một cách triệt để, không phải là việc chỉ là tạm ngừng việc thực hiện tội phạm. Mà là chấm dứt hẳn việc thực hiện tội phạm. 

Theo điều 16 của Bộ luật hình sự 2015 thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu có hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. 

Đối với người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi người thực hành chưa thực hiện tội phạm. Đồng thời những người đó phải có hành vi tích cực cản trở có hiệu quả người thực hành thực hiện tội phạm như là báo cho người bị hại để họ biết để phòng ngừa, giao nộp súng cho cơ quan chức năng….

 

2.4. Người thực hành có hành vi vượt quá. 

Tại khoản 4 điều 17 quy định về đồng phạm thì quy định rằng đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. Có nghĩa ràng nếu mà người thực hành thực hiện tội phạm vượt ra ngoài sự bàn bạc thống nhất từ đầu của những người đồng phạm thì chỉ người thực hành mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của mình. 

Hành vi vượt quá được hiểu là vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác nếu thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. 

Hành vi vượt quá của người thực hành là hành vi mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Theo khoa học luật hình sự thì họ chia ra làm hai loại chính đó là vượt quá về chất lượng của hành vi và vượt quá về số lượng của hành vi. 

Trong thực tiễn thì không phải lúc nào người thực hành họ cũng thực hiện những hành vi do đồng phạm khác đã đặt ra. Bởi vậy mà luôn có những trường hợp mà người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm, hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng cũng sẽ có những trường hợp mà người thực hành tự ý thực hiện hành vi vượt quá yêu cầu của đồng phạm khác đã đặt ra. Đây được coi là hành vi vượt quá của người thực hành. 

Ví dụ như anh A và B , C cùng nhau đi ăn trộm. A chịu trách nhiệm canh cho B và C vào trong nhà bà M để ăn trộm đồ. Tuy nhiên thì lúc đó trong nhà bà M đang còn thức, do bị bà M phát hiện nên B đã hoảng hốt và có khống chế bà M bằng cách xiết chặt cổ bà M dẫn đến bà M bị nghẹt thở và chết. Vậy thì hành vi của B được coi là hành vi vượt quá của người thực hành. Rõ ràng ban đầu 3 người chỉ là phân nhau đi ăn trộm và không có ý định giết chết bà M. Hành vi của B không nằm trong dự liệu của những đồng phạm khác. 

Trên đây là toàn bộ những thông tin liên quan đến những vấn đề cần lưu ý khi xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm. Mong rằng thông qua những thông tin mà chúng tôi cung cấp đã giúp ích cho các bạn trong việc tìm hiểu và xác định tội phạm một cách chính xác nhất. Nếu các bạn còn có những câu hỏi thắc mắc có liên quan đến đồng phạm hoặc là liên quan đến xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm thì có thể tiến hành liên hệ trực tiếp với chúng tôi thông qua số điện thoại của tổng đài tư vấn pháp luật 1900.0191 để được tư vấn hỗ trợ một cách nhanh chóng.