Lỗi là thải độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

+ Lỗi cô ý trực tiếp là hình thức lỗi mà người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

+ Lỗi cố ý gián tiếp là hình thức lỗi mà người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Xét về ý chí của người phạm tội, hai hình thức lỗi này hoàn toàn khác nhau: Nếu như trong lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội mong muốn cho hậu quả xảy ra, thì trong lỗi cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn cho hậu quả xảy ra, bản thân người phạm tội để mặc cho hậu quả xảy ra.

Tuy nhiên hai hình thức lỗi này còn có sự khác nhau cả về lí trí: Trong lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm, thấy trước hậu quả của hành vi đó; còn trong cố ý gián tiếp người phạm tội cũng nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng việc nhận thức về hậu quả không rõ ràng, thậm chí là mơ hồ, người phạm tội thấy trước hậu quả có thể xảy ra, thận thức về hậu quả của tội phạm của người thực hiện tội phạm dưới hình thức lỗi cố ý gián tiếp ở mức độ thấp hơn so với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Hay nói cách khác, lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp khác nhau cả về lý trí và ý chí mà không chỉ là về ý chí của người phạm tội.

 

1. Lỗi là gì?

Căn cứ vào Điều 364 Bộ luật Dân sự năm 2015, lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Và lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Lỗi là dấu hiệu thể hiện thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi trái pháp luật đối với hành vi trái pháp luật của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Để xác định yếu tố lỗi thì có thể xét đến yếu tố lý trí và yếu tố ý chí. Yếu tố lý trí sẽ thể hiện năng lực nhận thức của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật còn yếu tố ý chí sẽ thể hiện năng lực điều khiển hành vi của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

 

2. Các loại lỗi theo quy định pháp luật

Lỗi được biểu hiện qua những hình thức sau: lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do quá cẩu thả)

+ Lỗi cố ý: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp

Lỗi cố ý trực tiếp là người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình gây ra, nhận thấy trước được khả năng hoặc tất nhiên sẽ xảy ra hậu quả xấu do chính hành vi phạm tội đó gây ra và mong muốn rằng hậu quả xấu đó xảy ra.

Lối cố ý gián tiếp là người thực hiện hành vi phạm tội có thể nhìn thấy trước tính chất nguy hiểm của hành vi của mình, nhận thức trước được khả năng xảy ra hậu quả xấu do hành vi trái pháp luật của mình; mặc dù, họ không có mong muốn cho hậu quả xấu đó xảy ra nhưng đã có ý thức để cho hậu quả đó xảy ra.

+ Lỗi vô ý: lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả

Lỗi vô ý do quá tự tin là người thực hiện hành vi nhận thấy hay dự đoán trước được những khả năng có thể sẽ xảy ra do hậu quả xấu bởi hành vi của mình gây ra nhưng tin rằng hậu quả xấu đó sẽ không xảy ra hay dù có xảy ra thì bản thân mình có thể ngăn chặn được.

Lỗi vô ý do cẩu thả là người thực hiện hành vi không thể nhìn thấy trước được những khả năng có hậu quả xấu do hành vi của mình gây ra mà đáng lẽ ra họ phải nhìn thấy trước trong điều kiện cụ thể có thể nhìn thấy trước được.

Trong pháp luật về hình sự, để cấu thành tội phạm thì cần thỏa mãn 04 yếu tố sau: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Lỗi là một trong những dấu hiệu của mặt chủ quan trong cấu thành tội phạm.

Thứ nhất, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại của tội phạm.

Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của sự xâm hại gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại của tội phạm, bao gồm các dấu hiệu như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả do hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm, công cụ thực hiện tội phạm,…

Thứ ba, chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xác định có lỗi (lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý), có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự.

Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của sự xâm hại gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại của tội phạm hay là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được thể hiện qua hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: các dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm….

Ví dụ: Lỗi trong Tội giết người được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Lỗi của người thực hiện hành vi giết người là lỗi cố ý, ở đây có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Đối với lỗi cố ý trực tiếp, người thực hiện hành vi phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra hoặc tất nhiên sẽ xảy ra nhưng vẫn mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Còn đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức hành vi của mình có khả năng nguy hiểm đến tính mạng của người khác và có thể thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng để đạt được mục đích của mình thì người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Khi có hậu quả chết người nhưng chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt. Trường hợp hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích.

 

3. Phân biệt lỗi cố ý gián tiếp và lỗi cố ý trực tiếp

* Khái niệm:

Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì cố ý phạm tội được chia thành 02 trường hợp sau:

(1) Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp);

(2) Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không có mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp).

* Về mặt lý trí của người phạm tội: 

Đối với lỗi cố ý trực tiếp thì người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và thấy trước được hậu quả có khả năng xảy ra hoặc tất yếu xảy ra do hành vi đó gây ra.

Đối với lỗi cố ý gián tiếp thì người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và thấy trước được hậu quả nghiêm trọng do hành vi đó gây ra.

* Về mặt ý chí của người phạm tội: 

Đối với lỗi cố ý trực tiếp thì người thực hiện hành vi phạm tội đưa ra lựa chọn duy nhất là thực hiện hành vi phạm tội.

Đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn cứ để cho hậu quả đó xảy ra. Hay người phạm tội có những thái độ thờ ơ, bàng quang trước hành vi của mình dẫn đến hậu quả xấu xảy ra và hậu qủa mà người phạm tội thấy trước không phù hợp với mục đích của họ.

* Ví dụ:

Lỗi cố ý trực tiếp: A mượn B một số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) lấy lý do là mẹ của A bị bệnh rất nặng cần một số tiền để trả những khoản viện phí. Nhưng sau đó B phát hiện ra rằng là mẹ của A không bị bệnh nặng phải nhập viện và cần số tiền 200.000.000 đồng đó mà A dùng số tiền đó để chơi bài, đánh lô đề nên dẫn đến nợ nần. Khi đến hạn trả, A không có khả năng trả nợ cho B. Như vậy, ngay từ ban đầu A có mục đích chiếm đoạt tài sản và để chiếm đoạt được số tiền đó thì A đã nói dối B là mẹ đang bị bệnh, tức là A nhận thức được rằng là hành vi của mình là hành có tính chất nguy hiểm cho xã hội và A có mong muốn là hậu quả chiếm đoạt số tiền mà bản thân mượn của B xảy ra.

Lỗi cố ý gián tiếp: C và D là một cặp đôi đang yêu nhau còn E là người yêu cũ của D. Trong khoảng thời gian khi C, D chuẩn bị lễ cưới thì E ngày nào cũng đến làm phiền D khiến D vô cùng mệt mỏi và không biết giải quyết thế nào với E và sợ E sẽ gây rối trong buổi lễ cưới của mình. Nhìn thấy bạn gái mình bị làm phiền như thế nên C đã hẹn E đến một quán cà phê gần nhà D để nói chuyện. Khi đến hẹn, C và E không thể giải quyết được vấn đề và cả hai đã xảy ra xô xát. E bực tức và nhặt một cây gậy sắt ven đường đánh nhiều lần liên tiếp vào phần lưng của C nhưng không may đánh trúng vào phần đầu khiến C mất nhiều máu và dẫn đến tử vong. Do E bực tức nên đã tìm một hung khí trên đường để đánh D làm D chết. Khi đánh D, E nhận thức được việc đâm của mình là một hành vi nguy hiểm và có thể dẫn đến chết người; nhưng do bực tức nên vẫn cứ đâm. Dù E không muốn làm D chết nhưng nếu D chết cũng chấp nhận.

Nếu có vướng mắc pháp lý nào thì bạn đọc vui lòng liên hệ tới bộ phận tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua số tổng đài 1900.0191 để được hỗ trợ và giải đáp thắc mắc.  Xin chân thành cảm ơn bạn đọc!.