Trên cơ sở bài viết trước đó của chúng tôi về nội dung “Yêu cầu hoàn thiện nguồn luật hình sự nước ta hiện nay”, ở bài viết này Luật LVN Group cung cấp tới bạn đọc “Phương hướng hoàn thiện nguồn luật hình sự” nhằm đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn. Cụ thể trong bài viết dưới đây:
>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191
1. Nguồn luật hình sự là gì? Nội dung yêu cầu hoàn thiện nguồn luật hình sự là gì?
Nguồn luật hình sự Việt Nam là phương thức tồn tại của luật hình sự Việt Nam, là hình thức bên ngoài chứa đựng nội dung, đồng thời là hình thức xác định phạm vi giới hạn của luật hình sự Việt Nam về không gian, thời gian và đối tượng chịu tác dộng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nội dung yêu cầu hoàn thiện nguồn luật hình sự >> Xem thêm: Bài viết Yêu cầu hoàn thiện nguồn luật hình sự nước ta hiện nay tại đây để biết rõ yêu cầu cần hoàn thiện nguồn luật hình sự nước ta.
2. Khái quát về hướng hoàn thiện nguồn luật hình sự
Trên cơ sở những yêu cầu về phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế, mở rộng dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp nói trên, để hoàn thiện nguồn luật hình sự Việt Nam hiện nay, có thể cho rằng sự phát triển nguồn luật hình sự Việt Nam nên vận động theo ba hướng cơ bản sau đây:
Một là, nên mở rộng phạm vi quy định tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự trong các nguồn thành ván của luật hình sự;
Hai là, nên xem xét việc chính thức thừa nhận án lệ là nguồn của luật hình sự Việt Nam khi điều kiện cho phép;
Ba là, nên tăng cường công tác nghiên cứu khoa học luật hình sự.
Phần trình bày dưới đây sẽ làm rõ nội dung cụ thể của các phương hướng này.
3. Phương hướng hoàn thiện nguồn luật hình sự nước ta hiện nay là gì?
3.1. Mở rộng phạm vi quy định tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự trong các nguồn thành văn của luật hình sự
Mở rộng phạm vi các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tội phạm, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm hình sự của người phạm tội không chỉ đơn giản là việc quy định các vấn để này trong các đạo luật chuyên ngành, mà thực sự là một quyết sách có tính thay đổi lớn phải cân nhắc lựa chọn trong chính sách hình sự của Nhà nước. Điều này được khẳng định bởi sự thay đổi chính sách hình sự trong trường hợp này đặt ra hàng loạt các vấn đề vượt ra ngoài phạm vi luật hình sự – những vấn đề liên quan đến cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở Việt Nam cũng như vấn đề tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp tương ứng với nó.
Có một thực tế là, ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, khi Bộ luật hình sự năm 1999 đang trong quá trình dự thảo để ban hành, đã có rất nhiều ý kiến của các nhà khoa học cho rằng, nên quy định vấn đề tội phạm và trách nhiệm hình sự của người phạm tội ở nhiều văn bản luật khác nhau. Các ý kiến này đã tạo nên nhiều cuộc thảo luận sôi nổi song kết quả cuối cùng, khi Bộ luật hình sự năm 1999 chính thức được ban hành, là việc tiếp tục duy trì truyền thống trước đây, nghĩa là vẫn quy định tập trung vấn đề tội phạm và trách nhiệm hình sự trong một văn bản quy phạm pháp luật duy nhất là Bộ luật hình sự. Lập luận được đưa ra để giải thích cho cách quy định này là: “để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc tra cứu, vận dụng, cũng như tạo thuận lợi cho quần chúng nhân dân trong việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật để tuân theo và tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm” . Đương nhiên là, lập luận này có cơ sở thực tế của nó bởi không thể không thừa nhận một bộ phận cán bộ tư pháp Việt Nam còn có những hạn chê nhất định về mặt năng lực, trình độ chuyên môn. Sự hạn chế này dường như còn tạo thêm khó khăn cho thực tiễn công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm khi mà, về phương diện luật tố tụng, Nhà nước ta đã tăng thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện và đi kèm với việc tăng thẩm quyền xét xử là thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện, thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp huyện trong việc thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự đến loại tội rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên, có thể cho rằng, vấn đề quy định tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội duy nhất trong Bộ luật hình sự hiện nay không chỉ do trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ tư pháp bởi cho đến nay, trình độ của đội ngũ cán bộ này đã được nâng lên một bước đáng kể thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại cũng như việc chuẩn hoá các chức danh tư pháp của Nhà nước. Việc duy trì truyền thống cũ – truyền thống ảnh hưởng của pháp luật Xôviết – trong việc quy định về tội phạm và hình phạt, trên thực tế, ít nhất còn chịu sự tác động, ảnh hưởng của hai vấn đề khác. Vấn đề thứ nhất liên quan đến khả năng xây dựng pháp luật thực tế của cơ quan lập pháp và vấn đề thứ hai là cách tổ chức bộ máy Cơ quan điều tra Việt Nam hiện nay.
Liên quan đến khả năng thực tế của cơ quan lập pháp, các nghiên cứu gần đây của giới khoa học Việt Nam đã chỉ rõ: “Theo Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp nhưng trên thực tế Quốc hội chưa được bảo đảm đủ các điều kiện để thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của mình trong xây dựng pháp luật. Do đại bộ phận các luật, pháp lệnh đều có tính chất luật khung, nên hầu hết các văn bản này lại phải có nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ, ngành hướng dẫn thi hành. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải trong việc xây dựng văn bản của Chính phủ, các Bộ, ngành. Mặt khác, uỷ ban thường vụ Quốc hội, đến các Hội đồng, uỷ ban cũng như các đại biểu Quốc hội cũng rất ít khi thực hiện quyền trình dự án luật, pháp lệnh mà Điều 87 của Hiến pháp quy định. Chức năng giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng chưa được tổ chức thực hiện trên thực tế” và “Cơ chế xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn nặng về dân chủ hình thức, chưa phát huy thật sự trí tuệ của các cơ quan, chuyên gia, của nhân dân trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thiếu cơ chế phản biện khách quan, thiếu đội ngũ chuyên gia hoạch định chính sách, thể chế có trình độ cao. Trong quá trình xây dựng thể chế thiếu sự nghiên cứu khoa học, điều tra và tổng kết thực tiễn. Khi gặp khó khăn trong việc đưa ra một quy định cụ thể trong các luật, pháp lệnh, Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội thường giao quyền quy định cho Chính phủ. Điều này dẫn đến tình trạng buộc hiệu lực văn bản của Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội phải phụ thuộc vào văn bản của Chính phủ và của các Bộ, ngành” . Với thực trạng xây dựng các đạo luật chuyên ngành như trên, việc giới hạn quy định các chính sách hình sự cụ thể trong một đạo luật duy nhất là Bộ luật hình sự dường như là một giải pháp an toàn bởi nó tách luật hình sự ra khỏi ảnh hưởng của các cơ quan hành pháp, làm cho các quy phạm pháp luật hình sự không bị phụ thuộc vào các văn bản hướng dẫn thi hành đạo luật chuyên ngành được ban hành bởi Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan. Việc xử lý các bất cập của thực tiễn thi hành pháp luật hình sự, do vậy, cũng trở nên đơn giản hơn thông qua việc ban hành các đạo luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự mà tránh được việc phải động chạm đến các đạo luật chuyên ngành cũng như hệ thống dầy đặc các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật chuyên ngành đó. Sự tách rời luật hình sự với các luật chuyên ngành, trong trường hợp này, đưa đến những lợi ích nhất định: nó cho phép xử lý những vấn đề riêng rẽ của từng ngành luật mà không ảnh hưởng đến sự ổn định chung của toàn bộ hệ thống, không tạo nên những xáo trộn có thể đưa đến những hậu quả bất lợi cho việc phát triển kinh tế – xã hội mà khi sửa đổi luật hình sự cũng như sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành, nhà lập pháp cũng chưa lường tới được.
Ở khía cạnh thứ hai, sự liên quan của vấn đề tổ chức các cơ quan tư pháp, đặc biệt là tổ chức Cơ quan điều tra đối với việc quy định thông nhất tội phạm và trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong Bộ luật hình sự. Nhìn bề ngoài, dường như hai vấn đề: tổ chức Cơ quan điều tra và việc Bộ luật hình sự là văn bản duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt không tồn tại một mối liên hệ đáng kể nào bởi, một bên là các quy định của pháp luật nội dung còn bên kia là hệ thống thiết chế tư pháp có nhiệm vụ tổ chức, thực thi pháp luật. Tuy nhiên, xem xét vấn đề một cách cẩn trọng hơn, ta sẽ thấy một lôgic khác của vấn đề mà theo logic này, pháp luật và thiết chế thực thi pháp luật luôn vận động đồng điệu theo một chiều hướng thống nhất.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các Cơ quan điểu tra của Việt Nam được tổ chức ở ba ngành là Công an, Quân đội và Kiểm sát với những thẩm quyền điều tra khác nhau. Do bị hạn chế về thẩm quyền điểu tra theo đối tượng, số lượng các vụ án do Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tôi cao thụ lý điều tra là tương đối hạn chế. Trên thực tế, Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân điều tra hầu hết các vụ án xảy ra ở Việt Nam. Điều này có nghĩa, khi nói đến Cơ quan điều tra Việt Nam là chủ yếu muốn đề cập đến các Cơ quan điều tra được tổ chức ở Bộ Công an và Công an các địa phương. Cơ quan điều tra Việt Nam không tổ chức trong các Bộ, ngành khác của Nhà nước như Ngân hàng, Công thương, Xây dựng, Tài chính, Lao động, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… Một số ngành như Hải quan, Kiểm lâm có tổ chức một bộ phận cán bộ làm nhiệm vụ điều tra nhưng đó chỉ là điều tra ban đầu, sau đó, hồ sơ vụ án phải được chuyển về cho Cơ quan điều tra Công an nhân dân có thẩm quyền giải quyết. Trong tư duy lập pháp của nhà làm luật Việt Nam hiện nay, không tồn tại các cơ quan điều tra chuyên ngành do không tồn tại những tội phạm có tính chất chuyên ngành. Hệ quả tiếp theo của hiện tượng này tất yếu sẽ là việc các đạo luật chuyên ngành không quy định vấn đề tội phạm và đương nhiên cũng không có các quy định mang tính chế tài đối với tội phạm trong các đạo luật chuyên ngành đó. Đây là một lôgic hoàn toàn thống nhất bị chi phối bởi yếu tố lịch sử phát triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói chung, lịch sử tổ chức các cơ quan tư pháp Việt Nam nói riêng. Điểu này cũng là dễ hiểu và phù hợp với lý luận.
Từ những điều đã trình bày trên, có thể thấy rằng, việc chuyển đổi mô hình quy định tội phạm và trách nhiệm hình sự từ một đạo luật sang nhiều đạo luật là vấn đề không đơn giản bởi nó đụng chạm đến những nền tảng của truyền thống, của nếp nghĩ và suy cho cùng là đến những vấn đề thuộc về các đặc điểm chính trị, kinh tế – xã hội đặc thù của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, các đặc điểm của xã hội Việt Nam về chính trị, kinh tế, xã hội không phải là bất biến mà ngược lại, đang có sự vận động, phát triển với một tốc độ nhanh chóng do những thành quả của công cuộc đổi mới gần ba mươi năm qua. Nhà nước Việt Nam cũng đang trong quá trình vận động tiến tới một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Công cuộc cải cách tư pháp đã được khởi động và bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Có thể nói rằng, đây là những tiền đề mang tính thuận lợi cho việc mở rộng phạm vi nguồn chính thức của luật hình sự Việt Nam ra ngoài khuôn khổ truyền thông của Bộ luật hình sự, khắc phục những nhược điểm, khiếm khuyết mang tính nội tại do việc chỉ quy định vấn đề tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự trong một đạo luật duy nhất gây ra.
Ngoài thuận lợi trên, còn có thể thấy được những thuận lợi khác đối với xu hướng mở rộng phạm vi quy định các vấn đề cơ bản của luật hình sự trong các đạo luật chuyên ngành ngoài Bộ luật hình sự. Đó là những thuận lợi cả về phía chủ quan và khách quan. Về phía chủ quan, nhận thức xã hội về vấn đề này đang diễn ra theo hướng đồng thuận. Về phía khách quan, nhiều đạo luật chuyên ngành được ban hành trong thời gian gần đây đã bắt đầu có xu hướng hình sự hoá một số hành vi nguy hiểm cho xã hội qua việc nhà làm luật thiết kế một điều luật về những hành vi bị cấm trong các luật đó, chẳng hạn Điều 13 Luật an ninh quốc gia, Điều 13 Luật di sản văn hoá năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 14 Luật biên giối quốc gia…, nhất là Điểu 212 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Cần phải khẳng định những ưu điểm cơ bản của việc mở rộng phạm vi quy định tội phạm, hình phạt, những vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm của người phạm tội trong các đạo luật khác ngoài Bộ luật hình sự là:
– Làm cho các quy định về tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam được cụ thể, rõ ràng và minh bạch hơn, tránh được tình trạng “luật khung” trong lĩnh vực luật hình sự.
– Làm cho việc phân biệt ranh giới giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác được thực hiện một cách thuận lợi.
– Làm cho việc thiết kế Bộ luật hình sự được đơn giản hơn. Bộ luật hình sự, trong trường hợp này, chỉ quy định các tội phạm “truyền thông”, có tính ổn định cao, từ đó tránh được nguy cơ phải liên tục sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự do sự xuất hiện của những hành vi nguy hiểm mới, chưa được quy định trong Bộ luật.
– Làm cho thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trở nên linh hoạt: cơ quan tư pháp có đủ luật để đấu tranh kịp thời với các hành vi phạm tội. Việc chứng minh các dấu hiệu cấu thành tội phạm, trong trường hợp này, cũng bớt đi ít nhiều tính phức tạp do giảm được tối đa những điều luật trừu tượng, có nhiều cách hiểu, cách giải thích khác nhau về mặt nội dung.
– Làm cho công tác tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật được thuận lợi bởi tính cụ thể, rõ ràng của pháp luật hình sự.
– Làm cho yêu cầu thượng tôn pháp luật được đề cao, bởi lẽ, không chỉ có tội phạm mà ngay cả các vi phạm hành chính cũng được xác định một cách rõ ràng bởi luật; khắc phục được tình trạng phân tán, vi phạm hành chính được quy định trong một văn bản, tội phạm lại được quy định trong một văn bản khác cũng như nâng tầm quy định vi phạm hành chính lên một hình thức pháp lý cao hơn là các đạo luật của Nhà nước (hiện nay, vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2008 và các Nghị định về xử phạt hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể của Chính phủ).
– Góp phần giảm bớt tình trạng luật “chờ” Nghị định, Nghị định “chờ” Thông tư như hiện nay, bởi yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm luôn tạo một sức ép mạnh mẽ lên các cơ quan có thẩm quyền xây dựng luật cũng như xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này.
3.2. Xem xét việc chính thức thừa nhận và phát triển án lệ
Khác với phương hướng mở rộng nguồn luật thành văn nói trên, vấn đề thừa nhận và mở rộng án lệ không phải là quyết sách chính trị cần lựa chọn mà là một quyết sách chính trị đã được quyết định. Nghị quyết số 49/NQ-TW khẳng định một trong những nhiệm vụ của Toà án tối cao là phải “tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ…”.
Những lợi ích cơ bản của việc chính thức thừa nhận, phát triển án lệ như một loại nguồn của luật hình sự có thể thấy được là tương đối đa dạng.
+ Án lệ là một phương thức hiệu quả cho phép lấp được những “lỗ hổng” hay khoảng trống được tạo nên bởi pháp luật thành văn.
Án lệ của Toà án trước hết là những phán quyết nhân danh Nhà nước để kết luận một hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trên thực tế là tội phạm và người thực hiện hành vi đó là người phạm tội theo nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Về bản chất, “án lệ là sản phẩm, là sự kết tinh của cả hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật, là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn” . Trong án lệ hội tụ được cả năm yếu tố: tính công quyền, tính chính thức, tính thống nhất, tính công khai và tính công bằng cho mọi người dân. Án lệ cho phép đạt đến những vấn đề cụ thể mà luật thành văn không có điều kiện để đạt đến được. Án lệ, như thế là một sự bổ sung, có thể nói là tốt nhất cho luật thành văn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm và bảo vệ những lợi ích chung của cả cộng đồng.
+ Án lệ là một phương thức giúp phát triển luật thành văn một cách có hiệu quả.
Chúng ta biết rằng, án lệ xuất hiện trong điều kiện pháp luật thành văn còn chưa rõ ràng, đầy đủ, đã bị lạc hậu hoặc còn chứa đựng những mâu thuẫn. Việc áp dụng án lệ cho phép Toà án vạch rõ những sự chưa đầy đủ, rõ ràng, lạc hậu hay các mâu thuẫn đó, tạo cơ sở thực tiễn luận giải cho các hoạt động sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện luật thành văn. Thực tiễn tư pháp ở Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh, nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tiễn xét xử, được tổng kết lại qua các Bản tổng kết ngành, các công văn hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Toà án, các Bản kết luận của.Chánh án Toà án nhân dãn tối cao đã làm nền tảng cho việc ban hành các đạo luật thành văn, trong đó có Bộ luật hình sự và các đạo luật sửa đổi, bổ sung bộ luật này .
Nhìn nhận một cách khách quan, trong điều kiện cụ thể Việt Nam hiện nay, việc chính thức hoá án lệ như một loại nguồn luật hình sự và phát triển loại nguồn này cũng có những khó khăn nhất định cần phải được khắc phục. Để có thể coi án lệ chính thức là một nguồn của pháp luật hình sự Việt Nam và phát triển loại nguồn này thì một số vấn đề dưới đây nên được giải quyết:
– Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân theo hướng quy định các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự khi thực hiện chức năng xét xử phải tham khảo các bản án của Toà án nhân dân tối cao đã xét xử về các vụ án có nội dung, tình tiết tương tự; đồng thời bổ sung quyền được giải thích pháp luật cho Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự; quy định Thẩm phán phải có nghĩa vụ giải thích điều luật được áp dụng trong các bản án mà họ đưa ra.
– Tăng cường năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và khả năng độc lập cho các Thẩm phán theo hướng “Thẩm phán phải được đào tạo bài bản và phải có sự độc lập tuyệt đối. Thẩm phán phải có thực tài, được đào tạo tốt thì mới có đủ năng lực sáng tạo pháp luật, và thẩm phán có độc lập, có công tâm thì mới có các bản án công bằng…” .
– Tổ chức tốt việc tuyên truyền, giới thiệu về án lệ trong nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các phiên toà xét xử lưu động và qua các sách, báo pháp lý mang tính phổ thông.
3.3. Tăng cường công tác nghiên cứu, xây dựng các lý thuyết khoa học pháp lý luật hình sự
Có thể thấy rằng, vai trò của lý thuyết khoa học đối với sự phát triển của pháp luật nói chung, trong đó có sự phát triển nguồn luật hình sự là rất lớn. Lý thuyết khoa học luật hình sự với tính cách là những tri thức lý luận được tổng kết từ thực tiễn có thể được xem là cơ sở tư tưởng cho hoạt động sáng tạo pháp luật hình sự. Có thể nói rằng, không dựa trên những kinh nghiệm, tri thức khoa học mang tính lý luận đã được đúc kết thì không thể xây dựng được các đạo luật hình sự và nói chung là các văn bản pháp luật hình sự hoàn thiện.
Lý thuyết pháp luật hình sự không chỉ có vai trò lớn đối với sự phát triển của nguồn luật thành văn mà đối với án lệ, ảnh hưởng của nó cũng rất đáng kể.
Các lý thuyết khoa học pháp lý hình sự còn được xem là một loại nguồn của luật hình sự.
Ở nước ta hiện nay, việc phát triển nghiên cứu khoa học, xây dựng lý thuyết pháp luật, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cũng có một số khó khăn cần vượt qua. Những khó khăn này liên quan đến việc tiếp nhận các thành tựu, kinh nghiệm nước ngoài cũng như phát triển các nghiên cứu trong nước.
Việc tiếp nhận lý thuyết pháp luật nước ngoài nằm trong một tiến trình chung của sự giao lưu văn hoá quốc tế và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá của nhân loại. Để hoàn thiện kiến thức cũng như tư duy pháp lý của mình, các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam không thể không nghiên cứu, học hỏi, tiếp nhận có chọn lọc lý thuyết pháp luật nước ngoài.
Về phía trong nước, việc phát triển các lý thuyết khoa học luật hình sự phục vụ cho việc hoàn thiện nguồn luật cũng gặp những trở ngại nhất định. Lý thuyết khoa học phải dựa vào thực tiễn và được xây dựng trên cơ sở thực tiễn. Thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay vô cùng phong phú song công tác tập hợp, thống kê, lưu giữ tư liệu, số liệu, văn bản ở nước ta chưa được quan tâm đúng mức, bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh chiến tranh nên rất tản mản, không đầy đủ và cần thiết tính hệ thống. Nhiều số liệu, tài liệu, văn bản thực tế rất khó tiếp cận nên việc tìm hiểu Cũng gặp nhiều khó khăn. Các bản án của Toà án, mặc dù được tuyên công khai song chỉ mới vài năm gần đây mới được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản thành sách nhưng với số lượng rất hạn chế. Các thông tin, số liệu liên quan đến vụ việc hay tình hình phạm tội trên báo chí thường do những người không chuyên ngành luật tìm hiểu, thu nhận từ nhiều nguồn khác nhau nên độ tin cậy không được bảo đảm. Đây là những trở ngại khiến cho đôi khi các nghiên cứu khoa học luật hình sự Việt Nam mang tính lý thuyết thuần tuý, hàm lượng thực tiễn thấp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công trình nghiên cứu.
Để có thể phát triển việc nghiên cứu, xây dựng các lý thuyết khoa học pháp lý hình sự, hoàn thiện nguồn luật hình sự Việt Nam, có thể nói nên chú trọng giải quyết tốt các vấn để sau đây:
Về phía các nhà khoa học luật hình sự, hướng nghiên cứu cần tập trung là: 1) Nghiên cứu những hiện tượng mới phát sinh trong xã hội hiện nay liên quan đến quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật hình sự cũng như phát triển, nâng cao ý thức pháp luật đôì vối người dân trong xã hội; 2) Nghiên cứu các vấn đề có tính chất liên ngành như triết học pháp luật hình sự, xã hội học pháp luật hình sự để làm sâu sắc thêm lý luận luật hình sự; 3) Phát triển các lý thuyết pháp luật hình sự mối trên cơ sỏ tiếp thu những thành tựu khoa học pháp lý, đặc biệt là các trường phái khoa học pháp lý hình sự nước ngoài; 4) Đẩy mạnh nghiên cứu pháp luật thành văn để hoàn thiện nguồn này; 5) Triển khai các hoạt động cụ thể nghiên cứu án lệ, trước hết là thực tiễn tư pháp tại Việt Nam và các bản án đã được công bô’ bởi Toà án nhân dân tối cao.
Về phía Nhà nước, cần có sự quan tâm đầu tư về vật chất, khuyến khích, động viên về tinh thần đối với các nhà khoa học pháp lý hình sự có các công trình nổi bật, có nhiều công lao đóng góp cho sự phát triển lý thuyết khoa học pháp luật hình sự; đổi mới phương thức quản lý nhà nước, công khai, minh bạch chính sách, pháp luật (trừ các tài liệu, tư liệu, số liệu thuộc bí mật nhà nước), phải có những biện pháp và hình thức công khai hoá thông tin liên quan đến hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chông tội phạm để các nhà nghiên cứu có thể dễ dàng tiếp cận, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học được hiệu quả hơn.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập