1.Khái niệm Giám đốc thẩm là gì ?

Trong thực tế đời sống hiện nay, chắc hẳn mọi cá nhân, tổ chức đều không còn xa lạ với các vụ án hình sự, dân sự được đưa ra xét xử. Việc thi hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là nghĩa vụ đương nhiên được pháp luật đảm bảo. Tuy nhiên, không phải trong bất cứ trường hợp nào, bản án hay quyết định của Tòa án cũng hoàn toàn đúng và phù hợp với quy định của pháp luật.

Thực tế chứng minh có nhiều trường hợp sau một vụ án đã được xét xử, các đương sự vẫn có thể gửi đơn đề nghị xem xét lại bản án khi phát hiện ra hoặc có căn cứ chứng minh được việc xét xử chưa đúng, chưa phù hợp. Các đương sự có thể thực hiện thông qua một loại thủ tục đó là thủ tục đề nghị giám đốc thẩm, đây là một phương thức giúp tạo ra một cơ hội mới nhằm lật lại vụ án, bảo đảm tính công bằng cho các bên tham gia

Hiểu đơn giản, giám đốc thẩm là một thủ tục tiến hành việc lật lại một bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án để xem xét, xác minh lại toàn bộ quá trình giải quyết, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền và nghĩa vụ liên quan. Việc tiến hành xét lại này có thể vì những lí do trong toàn bộ quá trình xét xử, giải quyết vụ án mà có sự vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ cho rằng kết luận thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án đã đưa ra không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; Trong xuyên suốt toàn bộ vụ án từ khi thụ lý, có sự nhầm lẫn, sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết và áp dụng quy định pháp luật; Việc giải quyết vụ án đã có dấu hiệu vi phạm một cách nghiêm trọng các quy định của pháp luật trong thực hiện thủ tục điều tra, truy tố, xét xử từ đó dẫn đến mắc lỗi sai lầm nghiêm trọng.

Các căn cứ kháng nghị đối với thủ tục giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự hay Tố tụng dân sự đều giống nhau.Trên thực tế, thủ tục này có thể dễ dàng gặp ở nhiều nơi, một ví dụ gần đây về vụ án xe container tông vào xe Innova lùi xe trên cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên dẫn đến hậu quả làm 4 người tử vong đã được Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội tiến hành mở phiên giám đốc thẩm xét xử lại do kháng nghị của TAND cấp cao.

Thứ hai, đặt ra một câu hỏi quan trọng trong vấn đề này là quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm trên hai lĩnh vực, thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

2. Thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

>> Xem thêm: Đối tượng, chủ thể và phạm vi của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự ?

Theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thủ tục giám đốc thẩm cũng được quy định các đối tượng, chủ thể nội dung, phạm vi như Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cụ thể:

Các căn cứ làm cơ sở để kháng nghị thủ tục giám đốc thẩm trong Điều 371 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng tương tự như đã nêu trên.

Những đối tượng có thẩm quyền thực hiện việc kháng nghị bao gồm:

– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nếu trong trường hợp họ xét thấy bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao hoặc các Tòa án khác đã có hiệu lực pháp luật có sự vi phạm pháp luật hoặc ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, ngoại trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

– Đối với những bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vu vực, Tòa án quân sự cấp quân khu, thẩm quyền kháng nghị thuộc về Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.

– Xét thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ, thẩm quyền thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân cấp cao.

Khi có căn cứ cho rằng có yếu tố vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, bên có quyền liên quan có thể thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị. Hình thức thông báo có thể là thông báo trực tiếp cho người có thẩm quyền hoặc thông báo bằng văn bản. Pháp luật cũng quy định nếu bên thông báo là cá nhân thì phải kí tên hoặc điểm chỉ vào văn bản thông báo, nếu là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải có chữ kí và con dấu của Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó. Nội dung chính văn bản thông báo phải tuân thủ theo quy định của pháp luật tại Điều 374 Bộ luật này.

Tòa án, Viện kiểm sát có trách nhiệm vào sổ nhận thông báo khi nhận được thông báo bằng văn bản về việc phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nếu người thông báo nộp văn bản thông báo kèm theo cả những thông tin, tài liệu, chứng cứ hợp pháp có liên quan, Tòa án, Viện kiểm sát cũng phải lập biên bản thu giữ theo quy định của pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp Tỉnh tiến hành kiểm tra bản án, quyết định này để xác minh, kiểm tra các yếu tố vi phạm pháp luật và đề xuất kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị. Khi phát hiện thấy có yếu tố vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì Viện kiểm sát, Tòa án phải tiến hành thông báo ngay cho người có thẩm quyền kháng nghị, nội dung thông báo này phải được lập thành văn bản đồng thời cũng thông báo cho người đã kiến nghị biết.

Nếu Tòa án đang giữ hồ sơ nhận được yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án của phía Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị thông qua văn bản, thì trong thời hạn 07 ngày kể từ khi nhận được văn bản yêu cầu, Tòa án đó phải có nghĩa vụ chuyển hồ sơ vụ án cho bên yêu cầu.

Người có thẩm quyền kháng nghị tiến hành ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định của Tòa án khi xét thấy các cứ chứng minh việc vi phạm pháp luật là đúng, phù hợp với quy định của pháp luật.

Về thời hạn kháng nghị được chia theo hai trường hợp theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho người bị kết án. Nếu việc tiến hành kháng nghị mà theo hướng có lợi cho người bị kết án thì có thể được tiến hành trong bất kì thời gian nào nhằm bảo về quyền lợi cho người bị kết án một cách kịp thời nhất, ngay cả trường hợp người bị kết án đã mất thì vẫn có thể tiến hành kháng nghị để minh oan cho người đó. Nếu không có lợi cho người bị kết án thì việc kháng nghị được tiến hành trong vòng 01 năm tính từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Điều 379 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ).

Sau quá trình kiểm tra xác minh, phiên tòa giám đốc thẩm sẽ được tiến hành bởi Tòa án nhân dân có thẩm quyền, trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày có quyết định kháng nghị kèm theo toàn hồ sơ và các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án.

3. Khái niệm giám đốc thẩm và tái thẩm

>> Xem thêm: Khái niệm, nhiệm vụ, ý nghĩa của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ?

Pháp luật tố tụng nước ta luôn tuân theo hai cấp xét xử để đảm bảo cho bản án ra đúng pháp luật tuy nhiên không phải lúc nào bản án đưa ra ở cấp xét xử thứ hai cũng chính xác; vì vậy, pháp luật Việt Nam đã quy định thủ tục Giám đốc thẩm và Tái thẩm nhằm đảm bảo sự chính xác nhất trong việc ra bản án. Giám đốc thẩm và Tái thẩm được thực hiện đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vậy sự khác nhay giữa quyền hạn Giám đốc thẩm và Tái thẩm ở đây là gì? Sau đây chúng tôi xin đưa ra một số phân tích nhằm làm rõ vấn đề trên.

Khái niệm.

Để hiểu phân biệt quyền hạn Giám đốc thẩm và Tái thẩm, ta cần hiểu rõ thế nào là Giám đốc thẩm và Tái thẩm.

Theo Điều 272 Bộ luật tố tụng hình sự về tính chất của giám đốc thẩm, ta có định nghĩa về Giám đốc thẩm như sau:

Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án.

Còn thủ tục Tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó (theo Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự về tính chất của tái thẩm.

4. Phân biệt quyền hạn quyền hạn Giám đốc thẩm và Tái thẩm.

Quyền hạn Giám đốc thẩm và Tái thẩm chính là thẩm quyền của Tòa Giám đốc thẩm và Tái thẩm.

Quyền hạn của giám đốc thẩm.

Điều 279 Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền của giám đốc thẩm quy định về quyền hạn của Giám đốc thẩm như sau:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.

+ Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu.

+ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

+ Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp khác nhau được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều 279 Bộ luật tố tụng hình sự thì cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.

Quyền hạn của Tái thẩm.

Quyền hạn của Tái thẩm bao gồm:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.

+ Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu.

+ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Tái thẩm).

Như vậy, về quyền hạn của Giám đốc thẩm và Tái thẩm, ta có thể phân biệt như sau:

+Thẩm quyền của Tòa Giám đốc thẩm bao gồm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Tòa án giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại và hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.

Hội đồng Tái thẩm có các thẩm quyền sau: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.

5. Đối tượng của giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

>> Xem thêm: Thủ tục trước khi xét xử sơ thẩm và phiên toà sơ bộ theo pháp luật Hoa Kỳ?

Việc xác định đúng đối tượng giám đốc thẩm sẽ đảm bảo cho hoạt động giám đốc thẩm được chính xác, hiệu quả và có giá trị. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Bộ luật TTHS 2015) không có điều luật cụ thể về đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ quy định chung về tính chất của giám đốc thẩm: “giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…”
Theo quy định của Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thì các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:
– Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
– Toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nhưng người kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và Toà án cấp phúc thẩm (Thẩm phán trước khi mở phiên toà, Hội đồng xét xử tại phiên toà) ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
– Trong trường hợp người kháng cáo rút một phần trong kháng cáo của mình hoặc có nhiều người kháng cáo, nhưng có người rút kháng cáo, có người không rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trong kháng nghị của mình, nếu Toà án cấp phúc thẩm không xem xét các phần có kháng cáo, kháng nghị đã bị rút; thì những phần của bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
– Bản án phúc thẩm, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ra quyết định
Đối với các quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể những quyết định nào là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ thời điểm nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án, Tòa án ra nhiều quyết định tố tụng khác nhau, chẳng hạn, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là các quyết định phân công hoặc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký; quyết định tạm giam; quyết định bắt, tạm giam; quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn; quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh; quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, quyết định trưng cầu giám định; quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định trả hồ sơ vụ án (để truy tố theo thẩm quyền); quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi vụ án; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, trong quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là quyết định hoãn phiên tòa; quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi vụ án; quyết định hoãn phiên tòa; quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định về việc giải quyết kháng cáo quá hạn;… sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Tòa án có thể ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. Những quyết định này do nhiều chủ thể khác nhau ban hành, có thể là Thẩm phán, Phó Chánh án, Chánh án, Hội đồng xét xử, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm… nhưng đều là những quyết định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, trong các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong TTHS còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định quyết định nào là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm. Qua thực tiễn công tác giám đốc thẩm, một số Kiểm sát viên, Thẩm phán khi báo cáo hoặc trao đổi nghiệp vụ đã cho rằng, tất cả các quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án ban hành đều là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm.
Tuy nhiên, việc coi tất cả các quyết định của Tòa án đều là đối tượng của giám đốc thẩm có thể dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan, không phù hợp với bản chất và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm. Bởi vì, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng gồm cả Tòa án ban hành nhiều quyết định tố tụng khác nhau để xác định sự thật vụ án. Có những quyết định mà tính chất, hiệu lực không khác gì nhau, mặc dù được ban hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, chẳng hạn các quyết định phân công, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn… Các quyết định này nếu tách riêng lẻ thì bản thân từng quyết định không thể giải quyết triệt để vụ án mà chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, đầy đủ và xác định tội phạm, xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Các quyết định này chỉ là đối tượng của hoạt động kiến nghị, khiếu nại mà không thể là đối tượng kháng cáo, kháng nghị trong hoạt động xét xử.
Theo chúng tôi, điều kiện cần để một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trở thành đối tượng của giám đốc thẩm trước hết là quyết định đó phải có tính chất giải quyết vụ án. Nhưng không phải quyết định nào có tính chất giải quyết vụ án (tạm thời hoặc dứt điểm) cũng có thể coi là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm, chẳng hạn quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án.
Khoản 2 Điều 330 và khoản 2 Điều 453 Bộ luật TTHS 2015 quy định: quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; việc kháng cáo, kháng nghị quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được thực hiện như đối với quyết định sơ thẩm. Như vậy, nếu các quyết định này không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm thì sẽ trở thành quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử, đối tượng của các quyết định này đều là bị can. Trong các quyền của bị can quy định tại khoản 2 Điều 60 Bộ luật TTHS 2015 thì bị can không có quyền kháng cáo. Quy định như hiện nay là có sự mâu thuẫn giữa các điều luật, không phù hợp với các nguyên tắc của TTHS và bản chất của xét xử. Vì vậy, các quyết định này chỉ nên quy định là đối tượng của khiếu nại như các quyết định tương tự của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
Do đó, điều kiện để các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trở thành đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là:
– Phải được quyết định bởi Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.
– Các quyết định này phải giải quyết định nội dung thực chất của vụ án.
– Phải là quyết định giải quyết cuối cùng, dứt điểm đối với vụ án đó.
– Phát sinh hiệu lực pháp luật.
Về giới hạn đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm, quy định của Bộ luật TTHS 2015 có những điểm giống với Bộ luật TTHS cũ, mặc dù không giới hạn đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm nhưng lại bị ràng buộc bởi khoản 4 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 2014, “quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”. Quy định này của Luật Tổ chức TAND năm 2014 không phù hợp với tinh thần của Bộ luật TTHS 2015, nhất là khi Bộ luật TTHS 2015 đã dành một chương XXVII để quy định thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Vì vậy, đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm cần bao gồm cả quyết định giám đốc thẩm và tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, đặc biệt trong trường hợp vì lợi ích pháp luật, cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo việc áp dụng pháp luật chính xác, thống nhất hoặc trường hợp minh oan cho người bị kết án.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, luật tố tụng hình sự về xét xử giám đốc thẩm – Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group