1. Mỗi lần hỏi cung có phải lập biên bản không ?
>>Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191
Thưa Luật sư của LVN Group, em tôi bị triệu tập lên cơ an công an để điều tra về một vụ án hiếp dâm tập thể . Mỗi lần như thế đều có biên bản . Vậy cơ quan điều tra là như vậy là đúng hay sai ?
Căn cứ pháp lý : khoản 1 điều 184 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :
Điều 184. Biên bản hỏi cung bị can
1. Mỗi lần hỏi cung bị can đều phải lập biên bản.
Biên bản hỏi cung bị can được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này; phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều tra tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
2. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra và bị can cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng trang biên bản. Trường hợp bị can viết bản tự khai thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra và bị can cùng ký xác nhận vào bản tự khai đó.
3. Trường hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị can biết quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch; người phiên dịch phải ký vào từng trang của biên bản hỏi cung.
Trường hợp hỏi cung bị can có mặt người bào chữa, người đại diện của bị can thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện cùng ký vào biên bản hỏi cung. Trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can.
4. Trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị can thì biên bản được thực hiện theo quy định của Điều này. Biên bản hỏi cung bị can được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
2.Biên bản là gì ?
>> Xem thêm: Tội phạm về môi trường là gì ? Tìm hiểu một số tội phạm về môi trường
1. Khi tiến hành hoạt động tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất.
Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
2. Biên bản phải có chữ ký của những người mà Bộ luật này quy định. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ.
Trường hợp người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản.
Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến.
Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.
3. Biên bản soạn thảo trên máy vi tính có thể không phản ánh đúng và đầy đủ diễn biến hoạt động hỏi cung bị can
>> Xem thêm: Tội phạm về ma túy là gì ? Quy định pháp luật về tội phạm ma túy
– Dùng bút viết (viết tay) lên giấy: phản ánh đầy đủ, chân thực cả quá trình hỏi cung bị can, các câu hỏi và câu trả lời đều được ghi nhận cụ thể và chi tiết, một chữ hay một đoạn bị gạch xóa hoặc bổ sung đều để lại dấu vết trên giấy. Thông thường nếu muốn thêm thì phải viết lên trên hoặc chèn vào phần đã viết trước đó; nếu bớt thì gạch lên phần đã viết; nếu sửa thì cũng sửa trên chính phần đã viết. Do đó những phần thêm, bớt, sửa đều tồn tại trên giấy, mắt thường nhìn có thể nhận thấy, cho nên đây chính là nội dung “gốc”.
– Dùng máy vi tính đánh máy: Máy vi tính có các chức năng xóa, sao chép và việc bổ sung rất đơn giản. Khi cần xóa bỏ: đưa con trỏ chuột vào vị trí đã xác định rồi sử dụng phím “delete” (gạch đi, xóa đi); khi cần bổ sung: đưa con chỏ chuột vào vị trí đã xác định rồi gõ thêm nội dung. Nhìn vào biên bản chúng ta không thấy nội dung “gốc” vì: phần bị xóa không còn và phần mới bổ sung không khác biệt so với các phần còn lại. Như vậy, sự thay đổi về “lượng” (ít hơn hoặc nhiều hơn) có thể sẽ dẫn đến sự thay đổi về “chất”, biên bản không được giữ nguyên tình trạng ban đầu, có thể nói biên bản này không có tính khách quan, toàn diện, lịch sử và cụ thể.
4.Việc lập biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên
>> Xem thêm: Luật phòng, chống ma túy là gì ? Tìm hiểu về luật phòng chống ma túy
Hỏi cung bị can là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên được quy tại điểm g khoản 1 Điều 42; Điều 183 và Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), đây là hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 183 và khoản 3 Điều 236 BLTTHS, trong cả ba giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử), khi xét thấy cần thiết Kiểm sát viên trực tiếp tiến hành hỏi cung bị can, cụ thể:
1. Trong giai đoạn điều tra: Bị can kêu oan, khiếu nại về hoạt động điều tra; có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật.
2. Trong giai đoạn truy tố: Nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu chứng cứ để quyết định việc truy tố.
3. Trong giai đoạn xét xử: Khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
Khi tiến hành hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải lập biên bản theo quy định tại Điều 133 và Điều 184 BLTTHS. Việc lập biên bản thực hiện theo mẫu số 126/HS (ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
Mẫu biên bản hỏi cung bị can số 126/HS được xây dựng trên cơ sở quy định của BLTTHS, đầy đủ nội dung, thuận lợi cho hoạt động của Kiểm sát viên.
Qua thực tiễn công tác, tôi nhận thấy việc lập Biên bản hỏi cung bị can được lập bằng hình thức đánh máy vi tính có ưu điểm là hình thức rõ ràng, dễ nhìn và có những thuận lợi nhất định. Tuy nhiên ngoài những ưu điểm đó thì việc đánh máy biên bản hỏi cung bị can thì có thể tiềm ẩn những vấn đề như sau:
1. Chưa thực hiện đúng quy định của BLTTHS về việc lập biên bản nói chung, lập biên bản hỏi cung bị can nói riêng
Điều 133 BLTTHS quy định: Biên bản
“1. Khi tiến hành hoạt động tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất.
Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
2. Biên bản phải có chữ ký của những người mà Bộ luật này quy định. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ…”
Điều 184 BLTTHS quy định: Biên bản hỏi cung bị can
“1. Mỗi lần hỏi cung bị can đều phải lập biên bản.
>> Xem thêm: Phạm nhiều tội là gì ? Khái niệm phạm nhiều tội được hiểu như thế nào?
Biên bản hỏi cung bị can được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này; phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều tra tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
2. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản thì Điều tra viên, cán bộ điều tra và bị can cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng trang biên bản. Trường hợp bị can viết bản tự khai thì Điều tra viên, cán bộ điều tra và bị can cùng ký xác nhận vào bản tự khai đó…”
Như vậy, các điều luật nêu trên đều quy định “ghi” biên bản hỏi cung bị can. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “ghi” được hiểu là: Dùng chữ viết hoặc dấu hiệu để lưu giữ một nội dung nào đó, khi nhìn lại có thể biết hoặc nhớ lại nội dung ấy.
Quy định “ghi” này có mối quan hệ chặt chẽ với phần giả định: “Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản”, (tại khoản 1 Điều 133 BLTTHS) và “trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản …” (tại khoản 2 Điều 184 BLTTS) và phần quy định về “ký xác nhận” trong các điều luật, bởi lẽ: Chỉ có ghi trên giấy thì mới để lại rõ những điểm sửa chữa, thêm bớt, tẩy xóa do đó mới cần phải ký xác nhận, dùng máy vi tính soạn thảo các phần đã được sửa chữa, thêm bớt có thể không để lại trên văn bản do đó không cần phải ký xác nhận.
Từ sự phân tích đó, tôi cho rằng Điều 133; Điều 184 BLTTHS đã quy định khi lập biên bản nói chung, lập biên bản hỏi cung bị can nói riêng bắt buộc phải viết tay, việc dùng máy vi tính lập biên bản hỏi cung là chưa thực hiện đúng quy định này.
2. Vi phạm chế độ bảo mật của ngành Kiểm sát
>> Xem thêm: Lính đánh thuê là gì ? Quy định pháp luật về lính đánh thuê
Biên bản hỏi cung bị can là một trong những tài liệu quan trọng nằm trong hệ thống tài liệu có chế độ ưu tiên bảo mật. Đa số các bị can đều bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam và bị giam tại cơ sở giam giữ. Trường hợp Kiểm sát viên sử dụng máy vi tính để lập biên bản hỏi cung bị can thì phải có máy in để in biên bản thì mới thực hiện được việc thông qua và ký xác nhận vào biên bản ngay sau khi kết thúc việc hỏi cung. Trên thực tiễn máy in khá cồng khềnh nên Kiểm sát viên không mang theo mà sử dụng máy in của người khác, do đó có thể xảy ra các trường hợp sau:
– Máy vi tính không tương thích với máy in, do đó Kiểm sát viên phải sử dụng máy vi tính của người khác;
– Kiểm sát viên không mang theo USB hoặc USB không đảm bảo chất lượng nên phải sử dụng USB của người khác.
Trong cả hai trường hợp nêu trên nếu sau khi in ấn Kiểm sát viên không thực hiện thao tác xóa biên bản trên máy vi tính hoặc trên USB, thì biên bản hỏi cung vẫn tồn tại trên máy tính và USB của người khác như vậy biên bản hỏi cung không còn ở trong chế độ được bảo mật.
3. Biên bản soạn thảo trên máy vi tính có thể không phản ánh đúng và đầy đủ diễn biến hoạt động hỏi cung bị can
– Dùng bút viết (viết tay) lên giấy: phản ánh đầy đủ, chân thực cả quá trình hỏi cung bị can, các câu hỏi và câu trả lời đều được ghi nhận cụ thể và chi tiết, một chữ hay một đoạn bị gạch xóa hoặc bổ sung đều để lại dấu vết trên giấy. Thông thường nếu muốn thêm thì phải viết lên trên hoặc chèn vào phần đã viết trước đó; nếu bớt thì gạch lên phần đã viết; nếu sửa thì cũng sửa trên chính phần đã viết. Do đó những phần thêm, bớt, sửa đều tồn tại trên giấy, mắt thường nhìn có thể nhận thấy, cho nên đây chính là nội dung “gốc”.
– Dùng máy vi tính đánh máy: Máy vi tính có các chức năng xóa, sao chép và việc bổ sung rất đơn giản. Khi cần xóa bỏ: đưa con trỏ chuột vào vị trí đã xác định rồi sử dụng phím “delete” (gạch đi, xóa đi); khi cần bổ sung: đưa con chỏ chuột vào vị trí đã xác định rồi gõ thêm nội dung. Nhìn vào biên bản chúng ta không thấy nội dung “gốc” vì: phần bị xóa không còn và phần mới bổ sung không khác biệt so với các phần còn lại. Như vậy, sự thay đổi về “lượng” (ít hơn hoặc nhiều hơn) có thể sẽ dẫn đến sự thay đổi về “chất”, biên bản không được giữ nguyên tình trạng ban đầu, có thể nói biên bản này không có tính khách quan, toàn diện, lịch sử và cụ thể.
4. Không thuận tiện, khó quản lý bị can
Trước và sau khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải tiến hành hoạt động giao – nhận bị can với cơ sở giam giữ. Kể từ thời điểm nhận, bị can thuộc trách nhiệm quản lý của Kiểm sát viên. Kết thúc việc hỏi cung nếu là biên bản viết tay thì việc thông qua biên bản và ký xác nhận được thực hiện ngay nhưng với biên bản soạn thảo trên máy vi tính thì Kiểm sát viên phải in ấn rồi mới thông qua và ký xác nhận được. Phòng hỏi cung không có máy in và Kiểm sát viên không mang máy in theo do đó Kiểm sát viên phải rời khỏi phòng; việc in ấn có thể gặp những trở ngại dẫn đến kéo dài thời gian in ấn. Việc quản lý bị can trong thời gian này có thể bị buông lỏng dẫn đến những hậu quả khó lường.
Đối với ngành Kiểm sát, bên cạnh việc đảm bảo chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp, chúng ta phải đảm bảo chất lượng hoạt động công tố, do đó khi thực hiện các nhiệm vụ phục vụ cho công tố trong cả ba giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử Kiểm sát viên đều phải đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Từ sự nhận thức không đúng, không đầy đủ có thể là nguyên nhân phát sinh vi phạm và thiếu sót trong việc lập biên bản hỏi cung bị can từ đó dẫn đến hậu quả: biên bản hỏi cung bị can không có giá trị pháp lý; vi phạm chế độ bảo mật và không giám sát được bị can.
Thiết nghĩ, cần kiến nghị đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét và hướng dẫn cụ thể việc lập biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên. Trong khi chờ hướng dẫn, chúng ta nên thực hiện lập biên bản hỏi cung bị can với hình thức viết tay để chủ động phòng ngừa vi phạm và rủi ro.
5.Bình luận và phân tích về biên bản hỏi cung bị can theo quy định
>> Xem thêm: Che giấu tội phạm là gì ? Khái niệm về che giấu tội phạm
– Biên bản hỏi cung bị can là tài liệu phản ánh nội dung, kết quả của một hoạt động điều tra quan trọng và là một trong những nguồn chứng cứ. Vì vậy, để bảo đảm cho việc hỏi cung có giá trị pháp lý, việc lập biên bản hỏi cung bị can phải tuân theo các quy định của Điều 133 và Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự.
Mỗi lần hỏi cung bị can, Điều tra viên đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi của Điều tra viên và câu trả lời của bị can. Nghiêm cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
– Sau khi hỏi cung xong, Điều tra viên đọc lại biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc biên bản. Trong trường hợp có bổ sung và sửa chữa biên bản thì bị can và Điều tra viên cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can phải ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng ký xác nhận vào tờ khai và Điều tra viên vẫn phải lập biên bản hỏi cung chứ không được dùng biên bản viết tự khai để thay thế cho biên bản hỏi cung.
Nếu cuộc hỏi cung được ghi âm và muốn đưa băng ghi âm vào hồ sơ vụ án thì khi bắt đầu hỏi cung Điều tra viên phải thông báo cho bị can biết việc đó và khi kết thúc phải phát lại băng ghi âm nội dung cuộc hỏi cung để Điều tra viên và bị can cùng nghe. Cần lưu ý, băng ghi âm nội dung cuộc hỏi cung không thay thế cho biên bản hỏi cung, đo đó, khi hỏi cung bị can, Điều tra viên vẫn phải lập biên bản hỏi cung mặc dầu có ghi âm. Sau khi kết thúc hỏi cung, Điều tra viên vẫn phải đọc lại biên bản hỏi cung cho bị can nghe và ký xác nhận vào biên bản hỏi cung. Trong biên bản hỏi cung ghi rõ là bị can đã được nghe băng ghi âm việc hỏi cung và xác nhận là đúng.
Trong trường hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, đổng thời giải thích cho bị can biết quyền được yêu cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch và bị can cùng ký vào từng trang của biên bản hỏi cung.
– Khi cuộc hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện hợp pháp phải cùng ký vào biên bản hỏi cung.
Trong trường hợp người bào chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị can.
Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực hình sự, quý khách có thể liên hệ trao đổi trực tiếp với Luật sư của LVN Group tư vấn thông qua tổng đài tư vấn luật hình sự: 1900.0191 hoặc đặt lịch để được tư vấn pháp luật hình sự trực tiếp tại văn phòng Công ty luật LVN Group. Chúng tôi sẵn sàng cử Luật sư của LVN Group tham gia bào chữa khi bạn hoặc người thân bị cáo buộc phạm tội và đứng trước nguy cơ bị phạt tù.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group