1. Sinh con thứ ba có bị xử phạt không?

Thưa Luật sư của LVN Group, tôi làm nông dân không tham gia vào Đảng, năm 2015 tôi sinh con thứ ba và khi đi đăng ký giấy khai sinh cho con thì UBND xã đã bắt đóng phạt hai triệu đồng thi mới làm được giấy khai sinh cho con. Vậy đúng với quy định của pháp luật không? Rất mong sớm nhận được phản hồi của Luật sư của LVN Group!

Người gửi: C.T.X

Sinh con thứ ba có bị xử phạt không ?

Hỏi đáp pháp luật hôn nhân về sinh con thứ ba – Ảnh minh họa

Trả lời:

Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã quy định rõ về nghĩa vụ của các cặp vợ chồng trong việc giữ mô hình gia đình có từ một đến hai con.

Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản:

1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con;

2. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định;

3. Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản.”

Trong một số trường hợp đặc biệt, được quy định tại Nghị định số 20/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số thì có một số trường hợp được coi là không vi phạm quy định việc sinh một hoặc hai con như sau:

Điều 2. Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con

1. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

2. Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

3. Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

4. Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

5. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

6. Cặp vợ chồng mà một hoặc cả hai người đã có con riêng (con đẻ), chỉ sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh. Quy định này không áp dụng cho trường hợp tái hôn giữa hai người đã từng có hai con chung trở lên và hiện đang còn sống.

7. Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.”

Theo Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, có hiệu lực kể từ 31/12/2013 (thay thế Nghị định 114/2006/NĐ-CP) thì không đề cập gì đến việc “xử lý việc sinh con thứ ba” nữa. Do đó việc cán bộ hộ tịch bắt anh nộp phạt hành chính và viết bản kiểm điểm là không có căn cứ pháp lý.

>> Tham khảo ngay: Những người được sinh con thứ ba? Mức xử phạt khi sinh con thứ ba?

2. Gia tăng tỷ lệ sinh con thứ ba: Những quan ngại về ổn định quy mô dân số

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, quy mô dân số Việt Nam đã lên tới 86,5 triệu người và sẽ còn tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tình trạng mất cân bằng giới tính trẻ sơ sinh cũng đang gây ra những quan ngại cảnh báo về những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Quy mô dân số nước ta đang đứng thứ 13 trên thế giới; dự báo dân số sẽ tiếp tục tăng vào khoảng 88 triệu người vào năm 2010.

Thực tế cho thấy, đối tượng sinh con thứ 3 không dừng lại ở những hộ nông dân mà gần đây lại tập trung chủ yếu trong đối tượng công chức nhà nước, những gia đình khá giả. Theo Tổng cục Dân số, tình trạng sinh con thứ 3 và mất cân bằng giới đang xảy ra khá nghiêm trọng tại nhiều địa phương. 45/63 tỉnh, thành phố có số con thứ 3 trở lên tăng cao, trong đó tỉnh Cà Mau dẫn đầu với tốc độ tăng 100%, Trà Vinh 97%, Bạc Liêu 87%…

Nhiều chuyên gia cho rằng, quy định “mập mờ” của Pháp lệnh Dân số (PLDS) hiện hành chính là cái cớ để nhiều gia đình vịn vào đó sinh thêm con thứ 3 và làm gia tăng sự mất cân bằng giới tính. Điều 10 PLDS năm 2003 quy định các cặp vợ chồng được quyền tự quyết số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh. Và theo đó, người dân mặc nhiên hiểu họ muốn sinh bao nhiêu con cũng được mà không quan tâm đến quy định của Chính phủ về nghĩa vụ mỗi gia đình chỉ nên có 1-2 con. Vì thế khi làm công tác tuyên truyền giảm tỷ lệ sinh con thứ 3, các cán bộ dân số gặp vướng mắc khi bị nhiều người dân lý luận: “Rõ ràng Quốc hội quy định là được tự quyết số con, sao anh lại bảo không nên?“. Bên cạnh đó, các cơ quan đơn vị, cộng đồng nới lỏng biện pháp hành chính, e ngại xử lý đối với người sinh con thứ 3 trở lên đã làm cho việc thực hiện chỉ tiêu giảm sinh hàng năm càng thêm khó khăn.

.Gia tăng tỷ lệ sinh con thứ ba: Những quan ngại về ổn định quy mô dân số

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

Theo đại diện của một số chi cục dân số các tỉnh, thời gian qua nhiều đảng viên “lách” Quy định 94/QĐ -TW của Bộ Chính trị: “Đảng viên có con thứ 3 thì cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ), khi sinh đến con thứ 4 thì mới bị kỷ luật khai trừ khỏi Đảng“. Họ cho rằng các quy định xử phạt đối với việc sinh con thứ 3 là được nới nhẹ. Do đó, tỷ lệ con thứ 3 là con của đảng viên từ đầu năm 2008 đến nay đã tăng vọt. Ông Dương Quốc Trọng – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS – KHHGĐ cho biết:

Thật ra không có sự ép buộc cứng nhắc nào bắt người dân không được sinh con thứ 3. Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền con người, quyền tự do quyết định sinh sản của người dân. Vì thế, chúng ta cũng chưa có một điều nào quy định rõ các hình thức xử lý đối với những người sinh quá số con quy định mà chỉ có chế tài với từng đối tượng. Chẳng hạn, nếu là đảng viên sẽ chịu hình thức kỷ luật của Đảng, từ cảnh cáo đến khai trừ khỏi tổ chức, còn cán bộ công nhân viên chức thì xử lý theo luật điều lệ cơ quan. Còn với người dân tự do nói chung thì cơ quan chức năng chỉ biết kiên trì vận động thôi chứ không có cách nào khác để trói buộc họ thực hiện đúng quy định.

Những thay đổi, sửa đổi liên tục những năm qua đã gây ra cú sốc đột biến về dân số. Và để đưa việc sinh đẻ có kế hoạch trở lại quỹ đạo mà cả nước đã từng đạt được trước đây, theo các địa phương sẽ phải mất nhiều năm rốt ráo vận động “đến từng ngõ, gõ từng nhà“.

Năm 2003 PLDS ban hành được gần 9 tháng, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 104/2003/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS. Năm 2004, tỷ lệ sinh, tỷ lệ phát triển dân số tăng mạnh trở lại ở nhiều địa phương trong cả nước; Dư luận cho rằng hiệu lực pháp lý của Nghị định 104/2003/NĐ-CP thấp hơn Pháp lệnh dân số 2003, thậm chí có ý kiến còn cho rằng những quy định trên của Nghị định là trái với Pháp lệnh. Việc sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số sẽ giúp người dân nhận thức rõ hơn về quy định của pháp luật đối với công tác DS- KHHGĐ, tránh sự hiểu nhầm pháp luật cho phép sinh nhiều con trong thời gian qua, hoặc cố tình hiểu nhầm để sinh con thứ 3. “Việc sửa đổi này vừa tạo thuận lợi cho việc tuyên truyền, vừa để người dân dễ chấp nhận hơn. Từ đó sẽ giúp giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 và tôi tin rằng chúng ta sẽ sớm kiểm soát được tình hình gia tăng dân số trong thời gian tới”, ông Trọng nói.

Theo ông Trọng, việc tính số dân cần đi liền với diện tích đất nước (tức điều đáng quan tâm là mật độ dân số). Hiện nay, mật độ dân số Việt Nam là 260 người/km2, cao gấp 5 lần mật độ trung bình thế giới, gấp 2 lần mật độ trung bình Châu Á và gấp 1,8 lần nếu so với Trung Quốc. Diện tích đất nước ta không quá hẹp nhưng tỷ lệ rừng, biển – những nơi dân cư không thể định cư được lại khá lớn. Vì thế, nếu số dân quá đông sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng diện tích và và các tài nguyên của đất nước. Với các gia đình giàu có, việc sinh nhiều con có thể không ảnh hưởng tới cuộc sống của họ nhưng vẫn gây sức ép lên xã hội, cộng đồng. Ông Trọng lý giải: “nếu dân số tăng 1% thì tương ứng tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP phải tăng 4% mới đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu. Mà như hiện nay, khi dân tăng 1% thì GDP của Việt Nam tăng 6%, tức là mức sống của chúng ta vẫn giậm chân tại chỗ, không hề được cải thiện”. Vì vậy, việc ổn định quy mô dân số là mục tiêu lâu dài. Sẽ là nguy cơ cho sự phát triển bền vững của đất nước nếu như để xảy ra sự bùng nổ gia tăng không kiểm soát về dân số cùng với sự mất cân bằng giới tính đe dọa sự bất ổn xã hội.

3. Xử lý kỷ luật khi công chức sinh con thứ ba?

Thưa Luật sư của LVN Group! Vợ chồng tôi là đảng viên cũng là công chức nay tôi đã có 2 con gái đang có dự định sinh con thứ 3. Vậy cho tôi xin hỏi chúng tôi có bị hình phạt gì không (trong đó chồng tôi là người dân tộc Tày có được phép sinh thêm nữa hay không?). Xin Luật sư của LVN Group trợ giúp cho vợ chồng tôi! Tôi xin cảm ơn!

Xử lý kỷ luật khi công chức sinh con thứ ba ?

Trả lời:

Đối với câu hỏi của bạn, chúng tôi được hiểu bạn muốn được tư vấn về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc sinh con thứ ba. Vì vậy, chúng tôi cung cấp thông tin cho bạn liên quan đến vấn đề này dựa trên các khía cạnh:

Về điều kiện sinh con thứ ba:

Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số thì những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con:

– Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

– Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

– Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

– Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

– Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

– Cặp vợ chồng mà một hoặc cả hai người đã có con riêng (con đẻ), chỉ sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh. Quy định này không áp dụng cho trường hợp tái hôn giữa hai người đã từng có hai con chung trở lên và hiện đang còn sống.

– Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.

Nếu thuộc vào trong các trường hợp trên thì cặp vợ chồng được sinh con thứ ba, mà không vi phạm quy định của pháp luật. Còn trong trường hợp của bạn, chồng bạn là người dân tộc Tày thì đây không phải là một trong những điều kiện để được sinh con thứ ba.

Về vấn đề xử lý khi sinh con thứ ba:

Hiện nay Nghị định số 176/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế (có hiệu lực kể từ 31/12/2013) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế không đề cập đến việc xử phạt khi sinh con thứ ba. Đây là một chính sách mở để đối phó với tình trạng già đi của dân số của Việt Nam trong tương lai.

Như vậy, thời điểm này, sinh con thứ ba thì sẽ không bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, vì vợ chồng bạn là công chức, mà vợ chồng bạn là Đảng viên thì sẽ bị xử phạt theo quy định của Điều lệ đảng. Căn cứ Điều 27 Quy định 102-QĐ/TW năm 2017 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm do Ban Chấp hành Trung ương ban hành:

Điều 27. Vi phạm quy định về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình

1- Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ ba (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách:

a) Cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tham gia các hoạt động xét nghiệm, chuẩn đoán để xác định giới tính thai nhi trái quy định.

b) Khai báo hoặc xin xác nhận, giám định không trung thực về tình trạng sức khỏe của vợ (chồng), con để thực hiện không đúng quy định hoặc để trốn tránh không bị xử lý do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

2- Trường hợp vi phạm đã bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ tư (trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác) thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ).

3- Trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ năm trở lên hoặc vi phạm trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ:

Gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà thực chất là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định.”

>> Thao khảo bài viết liên quan:Đảng viên sinh con thứ ba có bị kỷ luật không và hình thức kỷ luật gì?

4.Viên chức sinh con thứ ba có được hưởng chế độ thai sản?

Thưa Luật sư của LVN Group, tôi muốn hỏi: Viên chức sinh con thứ ba có được hưởng trợ cấp thai sran không? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Căn cứ theo quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 như sau:

“Điều 2. Đối tượng áp dụng

1.Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:

….c) Cán bộ, công chức, viên chức;…”

Đối tượng áp dụng chế độ thai sản được quy định tại Điều 30 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 như sau:

“Điều 30. Đối tượng áp dụng chế độ thai sản

Đối tượng áp dụng chế độ thai sản là người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h khoản 1 Điều 2 của Luật này”.

Như vậy,viên chức dù sinh con thứ 3 thì vẫn được hưởng chế độ thai sản khi thuộc 01 trong các trường hợp tại Điều 31Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 như sau:

– Đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

– Đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

>> Luật sư trả lời:Hỏi về mẫu đơn xin sinh con thứ ba? Hình thức kỷ luật khi sinh con thứ ba?

5. Kỷ luật đối với công chức nam sinh con thứ ba?

Tôi muốn hỏi về thời gian cơ quan tiến hành các thủ tục để xem xét kỷ luật đối với công chức là nam, sinh con thứ ba. Sau khi vợ công chức đó sinh con thứ ba, vi phạm pháp luật về dân số thì cơ quan tổ chức làm thủ tục để kỷ luật ngay hay sau 6 tháng hoặc sau 12 tháng?
Người gửi: Hải Vân

Kỷ luật với công chức là nam, sinh con thứ ba ?

Luật sư tư vấn pháp luật dân sự gọi: 1900.0191

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 112/2020/NĐ-CP về thời hạn xử lý kỷ luật như sau:

Điều 5. Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật

1. Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức thực hiện theo Điều 80 Luật Cán bộ, công chức được sửa đổi, bổ sung tại khoản 16 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.

2. Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật đối với viên chức thực hiện theo Điều 53 Luật Viên chức được sửa đổi, bổ sung tại khoản 7 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.

3. Trường hợp vụ việc có liên quan đến nhiều người, có tang vật, phương tiện cần giám định hoặc có tình tiết phức tạp khác cần thời gian để làm rõ thêm thì cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kéo dài thời hạn xử lý kỷ luật, nhưng không quá 150 ngày.

4. Không tính vào thời hạn xử lý kỷ luật đối với:

a) Thời gian chưa xem xét xử lý kỷ luật đối với các trường hợp quy định tại Điều 3 Nghị định này;

b) Thời gian điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự (nếu có);

c) Thời gian thực hiện khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án về quyết định xử lý kỷ luật cho đến khi ra quyết định xử lý kỷ luật thay thế theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

Như vậy, cơ quan cần tiến hành thủ tục xử lý vi phạm trong thời gian 02 tháng kể từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm, sau 02 tháng kể từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm mà cơ quan không tiến hành xử lý vi phạm, thì vi phạm của bạn sẽ xem như không được xử lý tiếp nữa. Trừ các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật theo Điều 3 Nghị định 112/2020/NĐ-CP:

Điều 3. Các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật

1. Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc riêng được cấp có thẩm quyền cho phép.

2. Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian điều trị bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức; bị ốm nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền.

3. Cán bộ, công chức, viên chức là nữ giới đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc cán bộ, công chức, viên chức là nam giới (trong trường hợp vợ chết hoặc vì lý do khách quan, bất khả kháng khác) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

4. Cán bộ, công chức, viên chức đang bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật, trừ trường hợp theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

Trong trương hợp này, đang xử lý kỷ luật đối với công chức nam, chứ không phải công chức nữ nên việc xử lý kỷ luật đối với công chức nam tiến hành bình thường theo Điều 5 Nghị định 112/2020/NĐ-CP.

>> Xem thêm: Hỏi về xếp loại công chức của giáo viên sinh con thứ ba?

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà quý khách hàng đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu quý khách cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email hoặc qua Tổng đài tư vấn: 1900.0191

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật hôn nhân – Công ty luật LVN Group