1. Khái niệm thâm hụt thương mại?
Thâm hụt thương mại là tình trạng trong đó giá trị hàng hóa mà một quốc gia nhập khẩu nhiều hơn giá trị hàng hóa mà quốc gia đó xuất khẩu hoặc quy mô của sự chênh lệch này.
Thâm hụt thương mại (trade deficit) là cán cân buôn bán bất lợi, nghĩa là sự thâm hụt trong cán cân thương mại xuất hiện khi giá trị xuất khẩu hữu hình (tức xuất khẩu hàng hoá) của một nước thấp hơn giá trị nhập khẩu hữu hình của nó. Thâm hụt thương mại như vậy có thể không phải là mối lo trực tiếp, nếu nó được bù lại bằng phần thăng dư được tạo ra ở phần nào đó trong cán cân thanh toán.
2. Thâm hụt thương mại ở thời Tổng thống Trump:
2.1. Trước thời Trump
Thâm hụt thương mại của Mỹ trong có sự giảm nhẹ. Nhưng nhìn chung, sự thiếu hụt thương mại của nước này trong năm 2016 đã tăng 1,9 tỷ USD – tương đương 0,4% – so với 2015 lên 502,3 tỷ USD. Đó là mức chênh lệch lớn nhất kể từ năm 2012.
Chính quyền đã áp dụng việc tăng thuế đơn phương thông qua việc sử dụng các cơ quan chức năng được Quốc hội ủy nhiệm trong Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962 (Biểu thuế mục 232 đối với thép và nhôm) và Đạo luật Thương mại năm 1974 (Biểu thuế Mục 201 đối với máy giặt và tấm pin mặt trời, và Mục 301 thuế quan đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc). Quốc hội đã thành lập các cơ quan chức năng này để giải quyết các mối đe dọa nhập khẩu có hại cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ (Phần 201) và an ninh quốc gia (Phần 232), cũng như các rào cản thương mại nước ngoài hoặc vi phạm cam kết thương mại (Section 301).
Mặc dù những công cụ này được sử dụng thường xuyên trong những năm 1980, nhưng việc sử dụng chúng đã giảm sau khi WTO ra đời năm 1995 và hệ thống giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành cũng như dỡ bỏ một số rào cản thương mại nhất định.
Ông Obama đã đưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu. Những chính sách của ông được đánh giá có phần mềm mỏng.
2.2. Thâm hụt thương mại thời kì Trump
Theo Tổng thống Trump, thâm hụt thương mại cần phải càng thấp càng tốt, và ông đã hiện thực hóa tư tưởng này của mình trong chính sách thương mại trong nhiệm kì của mình. Theo ông, nguyên nhân của sự thâm hụt thương mại của Mỹ xuất phát từ những hiệp định thương mại tự do đa phương, và ông đưa ra quyết định sẽ đưa nước Mỹ và nhiều hiệp định thương mại song phương hơn.
2.3. Các động thái chính của chính quyền
Bao gồm:
– Rút khỏi các hiệp định thương mại: Ông đã rút khỏi thỏa thuận thương mại châu Á – Thái Bình Dương của chính quyền Barack Obama, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), và tạm dừng các cuộc đàm phán về một thỏa thuận thương mại toàn diện giữa Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Ông cũng làm tê liệt cơ quan giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bằng cách chặn các cuộc hẹn mới và đe dọa rút lui hoàn toàn.
– Đàm phán: Ông đã đàm phán lại Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) với Canada và Mexico, nay được gọi là Hiệp định Hoa Kỳ-Mexico-Canada (USMCA), cũng như Hiệp định Thương mại Tự do Hoa Kỳ-Hàn Quốc và với Nhật Bản.
– Trump đã áp dụng các mức thuế rộng rãi đối với thép và nhôm từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả Canada và châu Âu với lý do rằng cần thiết vì an ninh quốc gia để chống lại tình trạng sản xuất quá mức của Trung Quốc.
– Ông cũng áp đặt thuế quan đối với một số mặt hàng tiêu dùng của EU và đe dọa chúng đối với các mặt hàng ô tô nhập khẩu của EU. Trong năm tài chính 2020, kết thúc vào ngày 30 tháng 9, con số đó cao hơn gấp đôi mức thuế mà CBP thu đối với hàng hóa nhập khẩu trước khi Trump nhậm chức. Ông tham gia vào một cuộc chiến thương mại kéo dài với Trung Quốc bao gồm thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu trị giá hàng trăm tỷ đô la của Trung Quốc, trả đũa kinh tế từ Bắc Kinh và các cuộc đàm phán bắt đầu và dừng lại.
Ngoài ra, để giảm hàng nhập khẩu, tăng số lượng việc làm cho nước Mỹ, ông còn ra quyết định sẽ đánh thuế cao hơn đối với hàng hoá sản xuất từ “công xưởng lớn nhất thế giới” là Trung Quốc, với hi vọng, nếu không muốn đặt nhà máy ở Trung Quốc và bị đánh thuế cao, các tập đoàn lớn của Mỹ sẽ mang các nhà máy trở lại lãnh thổ nước Mỹ. Tuy nhiên kế hoạch này cũng không được đánh giá là quá thành công, vì các tập đoàn Hoa Kỳ nhận ra rằng, tuy không thể đặt nhà máy ở Trung Quốc, nhưng so với mang nhà máy trở lại Hoa Kỳ, thì chuyển cơ sở sản xuất sang các nước đang phát triển sẽ được lợi hơn, do nhân công ở các nước đang phát triển rẻ hơn nhiều so với ở Mỹ. Tương tự như vậy, các nhà nhập khẩu không nhập hàng từ Trung Quốc nữa, nhưng chuyển sang nhập hàng từ các quốc gia khác, không chịu ảnh hưởng từ các biện pháp của chính quyền Trump.
Ví dụ: Tổng thâm hụt thương mại hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ đã tăng lên 679 tỷ USD vào năm 2020, so với 481 tỷ USD vào năm 2016 (một năm trước khi Trump nhậm chức). Chỉ riêng thâm hụt thương mại hàng hóa đã lên tới 916 tỷ USD, mức cao kỷ lục và tăng khoảng 21% so với năm 2016.
3. Thâm hụt thương mại thời kì Biden
Joe Biden được biết là một nhà ngoại giao, đã từng làm phó tổng thống, mặc dù những chính sách không quyết liệt, nhưng với bản chất 1 nhà ngoại giao, chậm nhưng chắc.
Thâm hụt thương mại vẫn tiếp tục tăng cao. Sự gia tăng nhanh chóng của thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ phản ánh tác động tổng hợp của cuộc khủng hoảng COVID-19, khiến xuất khẩu của Hoa Kỳ giảm nhiều hơn (217,7 tỷ USD) so với nhập khẩu (166,2 tỷ USD), và do sự thất bại liên tục của các chính sách thương mại và tỷ giá hối đoái của Hoa Kỳ trong hai thập kỷ qua.
Nguyên nhân: người dân Mỹ đang rủng rỉnh tiền hỗ trợ do đại dịch Covid.
Sau khi nhậm chức, Biden và người được đề cử làm đại diện thương mại Hoa Kỳ, Katherine Tai, sẽ có nhiều quyết định phải đưa ra. Biden nói rằng ông sẽ không ngay lập tức dỡ bỏ thuế quan đối với Trung Quốc của Trump, cho rằng Washington cần duy trì đòn bẩy với Bắc Kinh ngay từ bây giờ.
Cách Hoa Kỳ có thể xây dựng lại sản xuất trong nước bằng cách tái cân bằng thương mại của Mỹ, và bằng cách thực hiện đề nghị chính quyền Biden cho một, 4 năm chương trình 2 nghìn tỷ đôla cho xây dựng lại cơ sở hạ tầng Mỹ và đầu tư vào những cải tiến năng lượng và hiệu quả năng lượng sạch. Do đó, Biden hứa hẹn sẽ tập trung vào các ưu tiên trong nước để thúc đẩy khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ, bao gồm bằng cách đầu tư hàng nghìn tỷ đô la vào năng lượng, giáo dục và cơ sở hạ tầng; thực hiện các chính sách “Mua hàng Mỹ” của liên bang để ưu đãi các nhà sản xuất trong nước; và tăng cường khả năng thương lượng của người lao động.
Các động thái chính của chính quyền:
Chính sách của chính quyền Biden sẽ kích thích công nghiệp nội địa như được thể hiện qua cam kết tranh cử “Made in all of America” – được hiểu là sự mở rộng của nguyên tắc “Buy American” (tạm dịch, hãy mua hàng hóa của Mỹ) thông qua biện pháp như đánh thuế 10% lên các hãng Mỹ đặt hàng sản xuất hải ngoại (và ngược lại, được giảm thuế), và lấp lỗ hổng giúp các công ty đa quốc gia Mỹ tránh thuế lên phần lợi nhuận thu từ nước ngoài.
Đây là kế hoạch phân phối 600 tỉ USD từ ngân sách của chính phủ liên bang để mua hàng hóa và dịch vụ của Mỹ. Theo quan chức trên, mục đích của sắc lệnh mới nhằm lợi dụng sức mua chính phủ để thúc đẩy sản xuất nội địa, tạo ra thị trường cho các loại công nghệ tiên tiến. Việc đầu tiên là dừng ngay các tiêu chuẩn chọn mua hàng trước đây, không bao gồm tiêu chuẩn mua hàng Mỹ, theo đó, nếu một mặt hàng nào, hay một món phụ tùng nào, các hợp đồng liên bang cần mua, sẽ phải chọn công ty Mỹ làm tại nội địa đầu tiên.
Như vậy, về cơ bản, chính sách của Biden đang ở tình trạng “bình mới, rượu cũ” khi so sánh với thời kỳ Trump. Trong báo cáo công bố ngày 5/2, Bộ Thương mại Mỹ cho biết thâm hụt thương mại của nước này trong năm 2020 đã tăng 17,7% lên 678,7 tỷ USD, mức cao nhất kể từ năm 2008. Cụ thể, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 15,7% xuống mức thấp nhất kể từ năm 2010. Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ cũng giảm 9,5% xuống mức thấp nhất trong 4 năm qua. Hoạt động xuất khẩu giảm đã khiến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ năm 2020 giảm 3,5%, mức giảm mạnh nhất kể từ năm 1946.
Tình hình thâm hụt thương mại hiện tại của Mỹ: thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ đạt đỉnh cao mới trong tháng 3/2021 (74.4 tỷ USD), tăng 57.6% so với cùng kỳ năm 2020.
4. Nguyên nhân dẫn đến thâm hụt:
Sự gia tăng mạnh này là do kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh và điều này còn hơn là bù đắp lại nhiều hơn là việc chính quyền cố gắng giảm thâm hụt thông qua việc áp đặt thuế và không phải là món nợ của các nước.
Kinh tế dần tăng trưởng lại, người dân nhận được gói kích cầu từ chính phủ, đẩy mạnh mua sắm các mặt hàng nhập khẩu.
Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến đẩy mạnh mua sắm hàng hóa nhập khẩu là do hạn chế các lĩnh vực tiêu dùng có mức độ tiếp xúc cao trong thời kỳ dịch bệnh, người dân chuyển sang mua sắm trực tuyến với phần lớn mặt hàng là nhập khẩu từ nước ngoài.