1. “Suy đoán vô tội”

Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tức là từ năm 1945 đến nay, cho thấy khái niệm “Suy đoán vô tội” (SĐVT) không thấy được nhắc tới trong bất kỳ văn bản nào. Nguyên tắc này (SĐVT) cũng không có bất kỳ một vị trí chính thức nào trong các giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam giành cho hệ Đại học. Còn trên diễn đàn khoa học, tức là trên các báo chí khoa học pháp lý, nguyên tắc suy đoán vô tội mới bắt đầu được nhắc tới một cách thưa thớt trong thời gian trên dưới chục năm lại đây.

Thế nhưng, điều đó không có nghĩa rằng tư tưởng tiến bộ, dân chủ và vị nhân quyền của nguyên tắc SĐVT không được áp dụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam suốt thời gian qua. Đây rõ ràng chỉ là một sự chậm trễ của lý luận so với thực tế đời sống pháp lý ở Việt Nam.

2. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật

Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật là một trong những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Trong trường hợp, bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử tuyên án.

Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

3. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng

Nội dung thứ hai của nguyên tắc suy đoán vô tội là người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Việc khẳng định không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị Luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được Luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình. Qúa trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về cả Tòa án.

4. Nội dung thứ ba của nguyên tắc quy đoán vô tội

Nội dung thứ ba của nguyên tắc suy đoán vô tội là mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…

Mục đích của Luật tố tụng hình sự là tội phạm là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”.

5. Nguyên tắc suy đoán vô tội là một phương tiện cho việc bảo vệ quyền con người

Như vậy, với nội dung như đã khái quát, nguyên tắc SĐVT rõ ràng là một trong những phương tiện tốt nhất cho việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Dựa vào nội dung đã nêu của nguyên tắc SĐVT để khảo sát pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên – BLTTHS năm 1988, tức là pháp luật của giai đoạn 1945 – 1988, thì phải thừa nhận rằng, tuy chưa phải ở mức độ toàn diện và sâu sắc, song pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn này đã được xây dựng kịp thời và xây dựng trên tinh thần SĐVT. Đó là điều tất yếu. Các lý do và sự kiện sau đây có thể minh chứng:

Thứ nhất, nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ nhân dân. Điều này đã được ấp ủ1 và khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, cũng như được ghi nhận và thể hiện bằng bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946;

Thứ hai, một đất nước bị chìm đắm trong chiến tranh, bị nô dịch, bị cướp bóc, bị đàn áp dã man, bị mất hết tự do và độc lập, thì nay, khi đã giành được quyền độc lập tự quyết, pháp luật của Nhà nước đó không thể là pháp luật nào khác ngoài pháp luật bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, bảo vệ các quyền cơ bản của con người và của công dân;

Thứ ba, trên thực tế, ngay từ năm 1945 – 1946, một hệ thống các cơ quan tư pháp dân chủ nhân dân đã được thành lập, từ hệ thống cơ quan Tòa án (13.9.1945) với hai cấp xét xử; hệ thống cơ quan điều tra hình sự (20.7.1946) cho đến cơ quan công tố (1945 – 1959) và cơ quan kiểm sát (1960). Điều cần đặc biệt lưu ý đây là bên cạnh việc kịp thời thành lập các cơ quan tư pháp dân chủ nhân dân như đã nêu, hệ thống Luật sư của LVN Group và bào chữa viên cũng được thiết lập rộng rãi và kịp thời ngay từ năm 1945 (xem sắc lệnh số 46 ngày 10 tháng 10 năm 1945 về tổ chức đoàn thể Luật sư của LVN Group ; Sắc lệnh số 69 – SL ngày 18 tháng 6 năm 1949 cho phép các bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư của LVN Group bênh vực trước các Tòa án) và công việc thực hiện quyền bào chữa còn được chấn chỉnh, nhắc nhở và khiển trách từ phía Nhà nước. Cụ thể trong Thông tư số 2225-HCTP ngày 24.10.1956 của Bộ Tư pháp đó nhắc nhở rằng:

  • Dưới chế độ Dân chủ nhân dân, quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu.
  • Trong nền tư pháp Dân chủ nhân dân của ta, chế độ bào chữa là một chế độ trọng yếu trong tố tụng của ta… Trước khi tuyên án, bị can phải được coi như người vô tội.
  • Vị trí của bộ phận bào chữa là một vị trí bình đẳng vối công tố viên. Hai bên có ngang quyền như nhau.

Cũng tại Thông tư này, tư tưởng SĐVT đã được thể hiện rất rõ trong mục III – Mấy điều mà công tố viên và Tòa án cần chú ý thi hành để thực hiện được thiết thực quyền bào chữa của bị can:

  • Khi khởi tố phải báo cho bị can biết họ bị truy tố về tội gì và giải thích cho họ biết về quyền bào chữa của họ;
  • Tống đạt cáo trạng cho bị can và cả người bào chữa ít nhất là 3 ngày trước phiên toà;
  • Trong điều tra xét xử, tuyệt đối cấm mớm cung, bức cung hay trấn áp bị can bằng bất kỳ hình thức nào;
  • “Không nên có định kiến rằng, hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối! xử như người có tội, bị can trước khi tuyên án được coi như vô tội để Toà án có thái độ hoàn toàn khách quan”;
  • Sau khi tuyên án, Toà án sơ thẩm phải nói rõ cho bị can biết họ có quyền chổng án và thời gian chống án.

Suy đoán vô tội có nội dung quan trọng và trọng tâm là bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phản ánh bản chất nhân văn, nhân đạo của pháp luật dân chủ và pháp quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, loại trừ việc buộc tội và kết án thiếu căn cứ. Do vậy, trong quá trình tiến hành tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng phải nghiêm túc tuân thủ, tôn trọng và chấp hành theo nguyên tắc này để tránh việc oan sai đối với những công dân vô tội. Nguyên tắc mở ra một định hướng tích cực hơn và được coi là nguyên tắc “vàng” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)