1. Điều kiện chính trị – nền tảng của việc bảo vệ quyền con người

Điều kiện chính trị: đường lối chính trị của một quốc gia là nhằm xây dựng và bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc (quyền dân tộc tự quyết), xây dựng nền kinh tế phát triển, nền dân chủ thực sự. Đường lối chính trị đó phải được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá xã hội, tổ chức hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đó chính là cơ sở pháp lý để xây dựng một xã hội có cơ cấu tổ chức và chế độ chính trị hướng tới tôn trọng, bảo vệ quyền con người.

Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, tạo điều kiện bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền con người, muốn đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực trong cuộc sống xã hội thì sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hoá thành pháp luật.

2. Đảm bảo tốt hơn quyền con người là mục tiêu hướng tới của Đảng

Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc. Ngày nay, quyền con người được xem là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc đảm bảo tốt hơn quyền con người là mục tiêu hướng tới của mình. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân ta đã luôn phải đấu tranh nhằm giải phóng con người, giải phóng dân tộc, hướng đến xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong thời gian dài, dân tộc Việt Nam bị nước ngoài đô hộ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng: quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt Nam mới, lúc sinh thời luôn có một ước vọng: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Ý nguyện đó của Người phản ánh khát vọng của nhân dân Việt Nam, thực hiện những giá trị thiết yếu về quyền con người, là mục đích, tôn chỉ hoạt động xuyên suốt của Nhà nước Việt Nam. Khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người.

3. Quyền con người là giá trị chung của nhân loại

Trong Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong đó nêu rằng: “Nhân quyền là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, nhân quyền trở thành giá trị chung của nhân loại”. Ngoài ra, trong bài phát biểu tại Hội nghị thế giới về Nhân quyền lần thứ II tổ chức tại Viên (Áo), tháng 6/1993, Phái đoàn Việt Nam cũng khẳng định: “Nhân quyền là một phạm trù tổng hợp, vừa là “chuẩn mực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài”.

Khái niệm QCN ra đời muộn, gắn liền với các cuộc cách mạng tư sản, nhưng những nội dung của QCN thì xuất hiện sớm và tồn tại trong mọi nền văn hóa. Các nhà nghiên cứu thường trích dẫn những bộ luật cổ ban hành qua các thời kỳ ở nhiều quốc gia, khu vực khác nhau để phân tích sự phát triển của tư tưởng nhân quyền trong lịch sử nhân loại. Bên cạnh đó, tư tưởng về QCN còn được phản ánh trong các học thuyết, ấn phẩm tôn giáo, chính trị và pháp lý của nhân loại từ xưa cho đến nay. Thực tiễn đã chứng minh những tư tưởng về QCN, cũng như những quy định trong pháp luật và thực tiễn bảo vệ QCN là sự đóng góp chung của mọi quốc gia, dân tộc, qua các thời kỳ phát triển của lịch sử. Mỗi bước tiến, nhân loại đều đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức và việc thực hiện hóa các QCN, vì vậy, QCN phát triển không ngừng, gắn liền với các hình thái kinh tế – xã hội, với nền văn minh nhân loại. Như vậy, QCN vừa là sản phẩm của văn minh nhân loại, vừa là sản phẩm đấu tranh lâu dài của con người chống lại áp bức, bóc lột, làm chủ thiên nhiên và tự hoàn thiện chính mình.

Ngày nay, những nguyên tắc và quy định của luật Nhân quyền quốc tế được coi là mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia. Ở hầu hết các nước, nội dung các công ước nhân quyền đã được nội luật hóa và từng bước tổ chức thực hiện bảo đảm QCN trên thực tế. Là giá trị chung nên tất cả các dân tộc, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đều có quyền thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao quý đó.

Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng, chỉ rõ nguồn gốc của QCN, giúp chúng ta có cơ sở bác bỏ các quan điểm, luận điệu sai trái, coi QCN là phát kiến, là giá trị riêng của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản phương Tây, do đó dẫn đến các biểu hiện phiến diện, cực đoan: hoặc quay lưng, khước từ những giá trị tiến bộ, văn minh; hoặc áp đặt mô hình của nước này cho nước khác.

Với quan điểm này, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về QCN được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo: “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính vì phẩm giá con người”. Đảng luôn khẳng định, việc bảo đảm QCN là một mục tiêu, động lực của cách mạng, là trách nhiệm to lớn của Đảng và Nhà nước, đồng thời nhấn mạnh: “chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia”. Trong bối cảnh mới, Đảng nêu rõ: Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, cần “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”

4. Phát triển và bảo vệ quyền con người trong thời kỳ mới

Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục thể hiện tinh thần của Hiến pháp 2013 trong việc phát triển và bảo vệ quyền con người trong thời kỳ mới. Nội dung Nghị quyết Đại hội XII đã xác định sáu nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong những năm tới. Một trong những điểm mới trong văn kiện này là sự phát triển quan điểm của Đảng về vai trò của con người và phát huy nhân tố con người trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Với hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, các vấn đề được nêu trong Văn kiện Đại hội XII đều quy tụ vào mục đích đổi mới vì dân, các mục tiêu phát triển đều hướng đến mục tiêu phát triển vì con người, thực hiện những quyền cơ bản của con người được xác định trong Hiến pháp năm 2013.

Tất cả 12 nhiệm vụ tổng quát được xác định để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội những năm tới đều là những định hướng chính sách lớn nhằm bảo vệ quyền con người trong bối cảnh toàn cầu hóa và tranh chấp lãnh thổ diễn ra gay gắt, vấn đề giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trở thành một thách thức lớn.

4. Quyền con người trong Hiến pháp

Xét về bản chất, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta trong suốt các thời kỳ cách mạng đều tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Bản Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, được coi là bản Hiến pháp đạt tới sự phát triển cao trong việc hoàn thiện các quyền xã hội của công dân nhưng bản hiến pháp này vẫn chưa tách bạch được quyền con người và quyền cơ bản của công dân.
Lần đầu tiên Hiến pháp năm 1992, tại Điều 50 ghi nhận về quyền con người: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” – ở đây vẫn chưa có sự phân định rạch ròi giữa quyền con người và quyền công dân, quyền công dân như là hình thức pháp lý của quyền con người.
Trong Hiến pháp năm 2013, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề quyền con người tiếp tục được làm rõ. Hiến pháp 2013 không chỉ phát triển các quyền tự do cơ bản của công dân mà còn đặc biệt chú trọng đến các quyền con người; xem quyền con người là hạt nhân của các chế định về quyền công dân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây là bản Hiến pháp đã được thiết kế dựa trên tư duy lập hiến hiện đại – tư duy tiếp cận dựa trên quyền con người. Hiến pháp năm 2013 gồm 11 Chương 120 Điều. Riêng chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Chương II từ Điều 14 đến Điều 49, là Chương chứa đựng nhiều điều nhất (36/120 điều) và cũng là chương có nhiều điểm mới nhất. Những điểm mới về bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không chỉ được quy định tập trung trong Chương II mà còn là quan điểm, nội dung xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013.
LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)