Khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Trong tình thế cấp thiết (TTCT) nếu không gây ra thiệt hại nhỏ hơn để ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn ở sự nguy hiểm đang thực tế đe dọa thì dứt khoát thiệt hại lớn hơn sẽ xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong thực tiễn, có trường hợp người có hành vi xử lý muốn gây ra một thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn một thiệt hại lớn hơn, nhưng thực tế họ lại gây ra một thiệt hại lớn hơn so với thiệt hại cần ngăn ngừa, tức là vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. Trường hợp này họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của mình theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuy nhiên khi xem xét trách nhiệm hình sự của người đã có hành vi vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cần phải nhận thấy rằng: Họ thực hiện hành vi như vậy là xuất phát từ động cơ, mục đích tích cực, nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp và cũng cần xem xét ý thức chủ quan của họ khi đang gặp phải sự nguy hiểm đang đe dọa gây nên thiệt hại. Cho nên, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Luật LVN Group phân tích chi tiết như sau: 

 

1. Tình thế cấp thiết là gì?

Căn cứ vào khoản 1 Điều 171 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tình thế cấp thiết được hiểu là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. 

Theo đó, tình thế cấp thiết là tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Do đó, gây hại trong tình thế cấp thiết sẽ không phải là tội phạm. Để xác định là tình thế cấp thiết đòi hỏi tình thế đó phải có các dấu hiệu sau:

– Phải có sự nguy hiểm thực tế đang xảy ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại ngay tức khắc

Sự nguy hiểm tuy mới đe dọa ngay tức khắc đến các lợi ích cần bảo vệ nhưng phải là sự nguy hiểm thực tế, nếu không có biện pháp để ngặn chặn thì tình huống đó sẽ gây ra thiệt hại ngay tức khắc. Mối quan hệ nhân quả giữa sự nguy hiểm đến các lợi ích cần phải bảo vệ là mối quan hệ tất yếu, nếu không áp dụng biện pháp ngăn chặn thì hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Nếu sự nguy hiểm đó không chứa đựng khả năng thực tế gây ra hậu quả mà chỉ do người gây thiệt hại tưởng tượng ra thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết.

Sự nguy hiểm thực tế này đe dọa hoặc đang gây ra những thiệt hại nhất định cho những lợi ích đang được pháp luật bảo vệ. Sự nguy hiểm đó có thể bắt nguồn từ con người, từ con vật, từ các hiện tượng thiên nhiên (như bão, lũ lụt, …) hoặc từ những sự cố kĩ thuật, … Sự nguy hiểm đang đe dọa gây ra thiệt hại phải là đe dọa ngay tức khắc mới được coi là trường hợp tình thế cấp thiết, nếu sự nguy hiểm đó chưa xảy ra hoặc đã kết thúc thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết.

– Việc gây thiệt hại này là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm vì trong tình thế cấp thiết đó không còn cách nào khác

Điều kiện này đòi hỏi người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải tính toán thật chính xác và nhanh chóng về khả năng đe dọa ngay tức khắc của sự nguy hiểm. Nếu không chọn biện pháp xử lý này gây thiệt hại thì sẽ không tránh khỏi việc một thiệt hại khác lớn hơn sẽ xảy ra. Nếu còn biện pháp khác để khắc phục sự nguy hiểm của tình huống và việc gây thiệt hại là điều không cần thiết thì tình huống đó sẽ không thuộc vào tình thế cấp thiết.

– Thiệt hại gây ra đó phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa

Khi đánh giá so sánh giữa hai loại thiệt hại cần có cái nhìn khách quan, toàn diện. Bởi thiệt hại phải gây ra là có thật, còn thiệt hại muốn tránh lại là cái trừu tượng, vô hình, nó chỉ là những việc có thể xảy ra hoặc tất yêu sẽ xảy ra nếu không được áp dụng biện pháp ngăn chặn. Vì vậy, khi đánh giá hai loại thiệt hại (thiệt hại thực tế và thiệt hại cần ngăn chặn), nếu gây thiệt hại rõ ràng là quá đáng thì mới bị coi là vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.

Với việc xác định hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm theo luật hình sự cho phép, khuyến khích công dân cần biết lựa chọn và chấp nhận việc gây ra thiệt hại nhỏ hơn để có thể bảo vệ các lợi ích chính đáng lớn hơn trong những trường hợp cần thiết.

Ví dụ về tình thế cấp thiết:

Một ngôi nhà đang cháy rất lớn trong thời tiết hanh khô và đang có gió lớn. Ngôi nhà đang cháy ấy lại nằm trên một tuyến phố có nhiều nhà liền kề nhau và cách đấy 03 ngôi nhà là cửa hàng bán bếp gas, nếu không dỡ bỏ ngôi nhà ở bên cạnh liền kề nhà đó thì đám cháy sẽ lan ra cả tuyến phố và gây thiệt hại trên diện rộng. Trong trường hợp này, việc dỡ ngôi nhà bên cạnh là gây thiệt hại cho người khác tuy nhiên việc làm này là cần thiết và không có sự lựa chọn khác vì nếu không làm thế, đám cháy sẽ lan ra và có thể gây ra thiệt hại lớn hơn.

 

2. Vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết là gì?

Căn cứ vào khoản 2 Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình trạng một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây thiệt hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn chặn.

Trong trường hợp người trong tình thế cấp thiết đã gây thiệt hại rõ ràng là quá đáng, vượt quá yêu cầu và chủ thể có lỗi đổi với việc vượt quá đó thì việc gây ra thiệt hại này được coi là không hợp pháp. Người gây ra thiệt hại trong trường hợp này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi gây thiệt hại đó nhưng sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết. Vì nếu xét động cơ phạm tội cũng như hoàn cảnh phạm tội cho thấy động cơ phạm tội của chủ thể là muốn ngăn chặn sự nguy hiểm, bảo vệ lợi ích hợp pháp đang bị xâm hại. Sự bất hợp pháp trong hành vi của chủ thể chỉ thể hiện ở chỗ đã vượt ra khỏi phạm vi được phép nhưng sự vượt quá này rõ ràng là do tính chất của động cơ và do hoàn cảnh phạm tội chi phối. 

Cấc dấu hiệu để xác định trách nhiệm hình sự trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết bao gồm các dấu hiệu sau:

– Phải có sự nguy hiểm thực tế đang xảy ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại ngay tức khắc;

– Việc gây ra thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm;

– Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra là bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Như vậy, điểm khác nhau giữa tình thế cấp thiết và vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết là: nếu trong tình thế cấp thiết, thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thiệt hại gây ra lại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn chặn.

Ví dụ: Căn nhà có đám cháy là một quán lẩu, vì sơ xuất mà 03 bàn lẩu liền kề nhau bị cháy. Nhân viên của quán đã xử lý được đám cháy, tuy nhiên vẫn để lại một lượng khói lớn. Nhà anh A ở đối diện cửa hàng lẩu, thấy cửa hàng khói lớn nên anh A nhận định bên trong quán đang cháy lớn. Anh A sợ đám cháy sẽ lây lan đến nhà mình nên anh A đã phá dỡ hết phần ngoài của cửa hàng lẩu. Hậu quả là một phần của cửa hàng lẩu bị hủy hoại, cây cối trước cửa hàng lẩu cũng bị thiệt hại nặng nề, toàn bộ điện dùng để trang trí cổng chào cũng bị hư hỏng nặng. Hành vi phá dỡ của anh A đã gây ra thiệt hại thực tế lớn hơn thiệt hại phải ngăn chặn nên hành vi của anh A là hành vi vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.

 

3. Bồi thường trong khi thực hiện hành vi vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết

Khi thực hiện hành vi vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì chủ thể gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 595 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại. Theo quy định trên, thì chủ thể gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết chỉ phải có trách nhiệm bồi thường phần vượt quá phần lợi ích cần hy sinh để bảo vệ phần lợi ích lớn hơn. Phần lợi ích cần hy sinh thuộc trách nhiệm bồi thường của chủ thể đã gây ra tình thế cấp thiết. Hơn nữa, không phải lúc nào các thiệt hại xảy ra cũng mang tính định lượng để có thể so sánh thiệt hại nào là lớn hơn và thiệt hại nào là nhỏ hơn.

Tuy nhiên, mục đích của tình thế cấp thiết là để bảo vệ bảo vệ lợi ích lớn hơn bằng cách hy sinh lợi ích nhỏ hơn, nếu như người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây thiệt hại lớn hơn để bảo vệ một lợi ích nhỏ hơn thì hành động đó không được coi là hành động cần thiết nữa. Chính vì vậy, để xác định một hành vi gây thiệt hại có phải thuộc tình thế cấp thiết hay không thì phải so sánh được giữa phần lợi ích được hy sinh và lợi ích được bảo vệ. Trong trường hợp này, lỗi của người gây thiệt hại được xác định là lỗi đối với phần vượt quá nên họ chỉ phải bồi thường thiệt hại đối với phần vượt quá.

Khoản 2 Điều 595 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định rằng người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo đó, người gây ra tình thế cấp thiết sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Mặc dù bản thân người này không phải là người trực tiếp gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ nhưng họ là người đã tạo ra nguy cơ đe dọa gây thiệt hại cho các lợi ích đó. Do vậy, họ phải là người chịu trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp tình thế cấp thiết do thiên nhiên mang lại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại xảy ra trong tình thế đó không đặt ra mà phải coi là rủi ro mà bản thân người bị thiệt hại phải gánh chịu.

Ví dụ: Anh A đi xe máy từ trong ngõ ra đường lớn nhưng không nhìn đường nên đã lao thẳng vào anh B. Anh B vì để tránh anh A mà đã bẻ lái nhưng lại đâm vào ông C đang chở 03 thùng nước ngọt, làm ông C bị ngã xe. Kết quả là ông C bị xây xát nhẹ, tuy nhiên 03 thùng nước ngọt chở phía sau bị rơi hết, có nhiều lon nước ngọt bị biến dạng và vỡ. Ai là người phải bồi thường cho ông C trong trường hợp này?

– Anh B là người đã đâm vào xe của ông C, hành vi của anh B đã gây ra thiệt hại về tài sản cho ông C. Tuy nhiên, căn cứ vào trường hợp này, vào hoàn cảnh gây thiệt hại và mức độ lỗi của anh B thì ta có thể thấy lý do mà anh B bẻ lái đâm vào ông C là do anh B tránh gây tai nạn cho anh A. Do vậy, sự việc xảy ra trong một hoàn cảnh bất khả kháng, là ngoài ý muốn chủ quan của anh B. Nếu không tránh kịp thời thì anh B chắc chắn sẽ đâm vào xe anh A và hậu quả sẽ không thể lường trước được. Như vậy, anh B đã gây ra thiệt hại cho ông C trong tình thế cấp thiết. Căn cứ vào khoản 1 Điều 595 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại. Vậy nên, anh B không có lỗi trong trường hợp này và không phải bồi thường cho ông C.

– Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 595 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo đó, anh A đi xe máy, cố tình lao ra đường mà không cẩn thận dù bản thân anh A nhận thức được rằng hành vi đó là rất nguy hiểm. Do vậy, anh A không chỉ có lỗi do vi phạm Luật Giao thông đường bộ mà còn là người gây ra tình thế cấp thiết. Vậy nên, anh A là người phải bồi thường cho ông C và hai người có thể tự thỏa thuận với nhau về mức bồi thường thiệt hại.

 

4. Chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết

Khi tình thế cấp thiết xảy ra, thiệt hại gây ra trên thực tế lại không nhỏ hơn thiệt hại phải ngăn ngừa thì rất chắc chắn thiệt hại thực tế sẽ bằng hoặc lớn hơn thiệt hại phải ngăn ngừa. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có trường hợp người có hành vi xử lý muốn gây ra một thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn một thiệt hại lớn hơn, nhưng thực tế họ lại gây ra một thiệt hại lớn hơn so với thiệt hại cần ngăn ngừa, tức là vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. Khi đó, họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của mình theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuy nhiên khi xem xét trách nhiệm hình sự của người đã có hành vi vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, ta phải thừa nhận một điều rằng, người thực hiện hành vi gây thiệt hại là xuất phát từ động cơ, mục đích tích cực, nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp. Đồng thời, cũng phải xem xét ý thức chủ quan của họ khi đang gặp phải sự nguy hiểm đang đe dọa gây nên thiệt hại. Cho nên, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ví dụ: Anh A đang lái xe ô tô chở anh B đang bị bệnh nặng đến bệnh viện cấp cứu. Khi chuẩn bị qua đoạn đường giao với đường sắt thì có tín hiệu đường sắt yêu cầu dừng lại và mặc dù nhìn thấy đoàn tàu hỏa đang đến gần nhưng anh A vẫn cố vọt ga, tăng tốc độ điều khiển xe vượt qua đường sắt để đưa người bệnh đi cấp cứu không có thể nguy hiểm đến tính mạng, khiến anh A bị mất lái đâm thẳng vào những người đang đứng chờ đoàn tàu đi qua phía bên kia đường làm 02 người chết, nhiều người bị thương, nhiều xe đạp, xe máy bị hư hỏng nặng nề.

– Hành vi của anh A trong trường hợp này đã gây ra thiệt hại thực tế (02 người chết, nhiều người bị thương nặng, nhiều xe đạp, xe máy bị hư hỏng nặng) lớn hơn so với thiệt hại cần ngăn chặn (anh B chết do không được cấp cứu kịp thời). Do đó, hành vi của anh A là hành vi vượt quá yêu cầu tình thế cấp thiết. Khi đó, anh A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, nhưng được hưởng tình tiết giảm nhẹ phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.

Mọi vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại 24/7, gọi ngay tới số: 1900.0191 hoặc gửi email trực tiếp tại: Tư vấn pháp luật qua Email để được giải đáp. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật LVN Group.