1. Khái niệm

Thỏa ước quốc tế là văn bản pháp lí quốc tế do các bên thoả thuận kí kết về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học – công nghệ…

Nếu việc kí kết do các chủ thể luật quốc tế tiến hành thì thoả ước này là các điều ước quốc tế, còn nếu một trong các bên hoặc các bên của thoả ước không có tư cách chủ thể luật quốc tế thì văn bản đó không được coi là một điều ước quốc tế.

2. So sánh Nghị định thư Madrid và Thỏa ước Madrid

Tiêu chí

Nghị định thư Madrid

Thỏa ước Madrid

Cơ quan chuyển tiếp

Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam
Cơ sở đăng ký – Dựa trên đơn đăng ký đã nộp tại nước xuất xứ.

– Không bắt buộc phải đợi đến thời điểm nhãn hiệu đó được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại nước sở tại thì mới có thể làm thủ tục (chỉ cần nộp hồ sơ ở nước sở tại)

– Dựa trên đơn đăng ký đã nộp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đẵ được cấp tại nước xuất xứ.

– Nhất thiết phải có Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại nước sở tại trước khi làm thủ tục.

Thành phần hồ sơ – Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu;

– Tờ khai;

– Mẫu nhãn hiệu;

– Các tài liệu liên quan;

– Bản sao công chứng Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc đơn đăng ký nhãn hiệu ở nước sở tại;

– Giấy ủy quyền nếu thông quan đại diện.

– Giấy ủy quyền nếu thông qua đại diện;

– Mẫu nhãn giống với mẫu nhãn hiệu đã đăng ký tại nước sở tại;

– Bản sao có công chứng giấy đăng ký nhãn hiệu ở nước sở tại;

– Danh mục hàng hóa, dịch vụ theo đăng ký nhãn hiệu ở nước sở tại;

– Đơn đăng ký.

Ngôn ngữ nộp đơn

Anh, Pháp, Tây Ban Nha Pháp

Thời hạn xét đơn tối thiểu

18 tháng 12 tháng

Thời hạn bảo hộ

10 năm và có thể gia hạn 20 năm và có thể gia hạn

Chuyển đổi đơn đăng ký quốc tế thành đơn quốc gia

Đơn đăng ký chỉ định tại các quốc gia vẫn có hiệu lực và giữ nguyên ngày chỉ định trong trường hợp đơn đăng ký tại nước xuất xứ bị đình chỉ toàn bộ hoặc một phần danh mục hàng hóa/dịch vụ nếu việc chỉ định được thực hiện trong vòng 03 tháng kể từ ngày nộp đơn tại nước xuất xứ. Không quy định về việc chuyển đổi đơn.
Mức độ phụ thuộc vào Giấy chứng nhận gốc tại nước xuất xứ Không đề cập đến vấn đề này. Sẽ bị mất hiệu lực bảo hộ nếu giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại nước xuất xứ bị hủy bỏ vì bất cứ lý do gì.
Cách tính phí chỉ định Phí theo từng nước quy định, hoặc theo quy định chung. Tuy nhiên, phí cho đơn đăng ký theo Nghị định thư cao hơn một chút so với phí cho đơn theo Thỏa ước, mặc dù mức phí này vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với trực tiếp đệ trình đơn quốc gia. Phí theo quy định chung
Số lượng quốc gia thành viên tính đến thời điểm hiện tại 81 quốc gia thành viên 56 quốc gia thành viên

3. Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN

Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN được thông qua vào ngày 6/11/1925 tại La Hay (Hà Lan) trong khuôn khổ Hội nghị Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) và có hiệu lực từ ngày 1/6/1928. Đến nay, Thỏa ước này đã được sửa đổi và bổ sung 3 lần tại Văn kiện London 1934 (ký ngày 2/6/1934 tại Anh), Văn kiện La Hay 1960 (ký tại Hà Lan ngày 28/11/1960 và được sửa đổi tại Stockholm, Thụy Điển vào năm 1967), Văn kiện Geneva 1999 (ký tại Thụy Sỹ ngày 2/7/1999) có hiệu lực từ ngày 23/12/2003.

Ba văn kiện nêu trên độc lập với nhau tạo nên hệ thống đăng ký quốc tế KDCN, mỗi một văn kiện đều chứa đựng một thỏa ước quốc tế đầy đủ nên việc đăng ký quốc tế KDCN có thể được thực hiện theo 1 trong 3 văn kiện, hoặc cả 3 văn kiện nêu trên. Hiện nay, chỉ có Văn kiện La Hay 1960 và Geneva 1999 còn hiệu lực. Văn kiện London 1934 đã bị tạm dừng kể từ ngày 1/1/2010 nhằm giảm sự phức tạp của hệ thống đăng ký quốc tế KDCN và giúp các thành viên tập trung chú ý hơn vào Văn kiện Geneva 1999.

Văn kiện La Hay 1960 gồm 33 điều, so với Văn kiện London 1934, văn kiện này là thỏa ước quốc tế chính thức đầy đủ, chi tiết và thuận lợi cho việc đăng ký quốc tế KDCN. Văn kiện La Hay 1960 quy định chỉ các quốc gia thành viên của Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN mới có thể gia nhập và các quốc gia có quy định thẩm định nội dung đơn KDCN không được tham gia; các quốc gia thành viên có quyền từ chối bảo hộ KDCN tại lãnh thổ của mình nếu xét thấy không đủ tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật quốc gia bằng một thông báo cho Văn phòng quốc tế của WIPO trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày nhận được đơn đăng ký KDCN có chỉ định vào quốc gia đó; ngôn ngữ đăng ký có thể là tiếng Anh hoặc Pháp.

Văn kiện Geneva 1999 gồm 4 chương, 34 điều. Khác với hai văn kiện trước, văn kiện này mở rộng cho tất cả các quốc gia thành viên của WIPO và các tổ chức liên chính phủ tham gia, mở ra một hệ thống đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của người nộp đơn, thuận lợi cho sự tham gia của các quốc gia có quy định thẩm định nội dung đơn KDCN và có một số quy định mới như: i) Ngôn ngữ đăng ký có thể là tiếng Anh, Pháp hoặc Tây Ban Nha; ii) Thời hạn tuyên bố từ chối bảo hộ KDCN là 6 tháng kể từ ngày công bố quốc tế, thời hạn này có thể được mở rộng thành 12 tháng đối với các quốc gia có quy định thẩm định nội dung đơn KDCN; iii) Thời hạn người nộp đơn yêu cầu trì hoãn công bố KDCN lên tới 30 tháng. Các quốc gia có thể quy định thời hạn này ngắn hơn hoặc không quy định thời hạn này. Trong trường hợp không quy định, thời hạn công bố KDCN là sau 6 tháng kể từ ngày đơn đăng ký KDCN được chỉ định vào quốc gia đó (trừ trường hợp có yêu cầu công bố ngay lập tức); iv) Trường hợp KDCN yêu cầu bảo hộ là hai chiều và có yêu cầu trì hoãn công bố đơn thì người nộp đơn có thể nộp các mẫu vật mang KDCN đó thay cho các ảnh chụp hoặc bản vẽ và người nộp đơn chỉ phải nộp các ảnh chụp hoặc bản vẽ này trước thời điểm công bố; v) Các quốc gia thành viên có thể quy định thu phí chỉ định riêng thay cho phí tiêu chuẩn cố định, khoản phí này không được thu cao hơn mức thu đối với việc đăng ký KDCN theo kênh quốc gia. Nếu hệ thống thu phí quốc gia có khoản phí thu riêng khi nộp đơn và khi cấp văn bằng thì phí chỉ định riêng này có thể được thanh toán thành hai lần; vi) Các quốc gia thành viên phải thông báo các yêu cầu khác (nếu có) liên quan đến hình thức đơn, như các nội dung bắt buộc của tờ khai đơn, số bộ ảnh chụp hoặc bản vẽ của KDCN, tính thống nhất của KDCN, quyền nộp đơn của người nộp đơn.

Văn kiện Geneva 1999 được đánh giá là văn kiện về đăng ký quốc tế KDCN có các quy định linh hoạt, thuận lợi, đáp ứng được yêu cầu đăng ký KDCN của người nộp đơn, cũng như các quốc gia có hệ thống bảo hộ KDCN khác nhau, nhất là các quốc gia có quy định thẩm định nội dung đơn KDCN. Đến nay, các nước có hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều đã tham gia Thỏa ước theo Văn kiện Geneva 1999. Việt Nam đã tuyên bố thừa nhận Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu và kế thừa vị trí thành viên mà Việt Nam đã có từ năm 1949, tuyên bố thừa nhận Công ước Stockholm về việc thành lập WIPO, tham gia Hiệp ước hợp tác sáng chế (PCT), Nghị định thư Madrid đăng ký quốc tế nhãn hiệu. Do đó, việc Việt Nam nộp Văn kiện gia nhập Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN (Văn kiện Geneva 1999) đã đảm bảo việc thực hiện cam kết của Việt Nam về SHTT trong các Hiệp định EVFTA, CPTPP và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong tương lai, đồng thời phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Cơ hội và thách thức khi gia nhập Thỏa ước La Hay

Có ba cách đăng ký yêu cầu bảo hộ KDCN ra nước ngoài: đăng ký theo kênh quốc gia (nộp đơn riêng tại cơ quan SHTT quốc gia đó); kênh khu vực (nộp một đơn duy nhất tại cơ quan SHTT của khu vực đó); kênh quốc tế (nộp theo Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN, một đơn duy nhất cho Văn phòng quốc tế của WIPO). Hiện nay, khi đăng ký yêu cầu bảo hộ KDCN ra nước ngoài theo kênh quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam phải nộp đơn thông qua đại diện SHCN nước sở tại, nộp đơn đăng ký trực tiếp cho các cơ quan SHTT của từng quốc gia riêng rẽ, nghĩa là nếu muốn yêu cầu bảo hộ ở nhiều nước thì phải làm nhiều đơn khác nhau với ngôn ngữ và yêu cầu của các quốc gia đó và phải chịu nhiều chi phí, nhất là phí thuê Luật sư của LVN Group. Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN giúp đơn giản hóa thủ tục đăng ký KDCN bằng cách thông qua một đơn đăng ký với một ngôn ngữ duy nhất (tiếng Anh, Pháp hoặc Tây Ban Nha) và bằng một loại tiền thống nhất (đồng franc Thụy Sỹ) nộp qua Văn phòng quốc tế của WIPO, giúp cho người nộp đơn dễ dàng thực hiện các thủ tục liên quan đến đơn đăng ký yêu cầu bảo hộ như sửa đổi đơn, chuyển giao quyền sở hữu và các thủ tục khác liên quan đến đơn đăng ký KDCN. Đồng thời, việc quản lý quyền đối với KDCN được bảo hộ (như gia hạn hiệu lực, chuyển nhượng KDCN, các thay đổi tên và địa chỉ chủ sở hữu KDCN) cũng được thực hiện một cách dễ dàng hơn bằng một thủ tục duy nhất nộp cho Văn phòng quốc tế của WIPO. Do đó, theo chúng tôi cơ hội khi Việt Nam tham gia Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN theo Văn kiện Geneva 1999 gồm:

Một là, khi đăng ký yêu cầu bảo hộ KDCN ra nước ngoài theo kênh quốc tế (nộp đơn theo Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN, nộp một đơn duy nhất cho Văn phòng quốc tế của WIPO), doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam có thể được thừa hưởng sự bảo hộ cho KDCN của mình ở nhiều quốc gia khác nhau, với chi phí thấp nhất.

Hai là, Việt Nam gia nhập Thỏa ước này cũng tạo ra các thuận lợi, giảm chi phí cho các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài khi muốn bảo hộ KDCN tại Việt Nam. Khi KDCN được bảo hộ, họ có nhiều động cơ hơn để nhập khẩu các sản phẩm mang KDCN đã được bảo hộ vào Việt Nam hoặc đầu tư sản xuất các sản phẩm này tại Việt Nam.

Ba là, các đăng ký quốc tế KDCN (cơ sở dữ liệu KDCN đã công bố) giúp doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam định hướng được xu hướng phát triển kiểu dáng của sản phẩm công nghiệp theo khía cạnh thẩm mỹ, là cơ sở để các nhà sản xuất trong nước phát triển các kiểu dáng mới trên cơ sở kế thừa kiểu dáng đang có. Để cạnh tranh, các nhà sản xuất khác cũng cho ra đời sản phẩm với kiểu dáng khác mang tính thẩm mỹ và cuốn hút người tiêu dùng. Điều này thúc đẩy chu trình sáng tạo liên quan đến KDCN.

Bốn là, Việt Nam có cơ hội tiếp cận và hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT nói chung và về KDCN nói riêng. Hệ thống pháp luật về KDCN có cơ hội được hoàn thiện trên cơ sở phù hợp, hiệu quả và minh bạch, vừa sử dụng KDCN như là công cụ để thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm mang KDCN, khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo, vừa hài hòa cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền và lợi ích cộng đồng. Đồng thời, hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ, tuân thủ chủ trương về cải cách thủ tục hành chính, đáp ứng các chuẩn mực, cam kết quốc tế về KDCN.

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc tham gia Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN cũng đặt ra cho chúng ta một số khó khăn, thách thức:

Thứ nhất, sau khi Thỏa ước có hiệu lực đối với Việt Nam, dự kiến số lượng đơn yêu cầu đăng ký KDCN của người nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng cao; số lượng đơn yêu cầu đăng ký KDCN của người Việt Nam nộp ở trong nước và nộp ra nước ngoài cũng tăng lên. Bảng 1 cho thấy tổng lượng đơn KDCN chưa kết thúc thẩm định nội dung tích lũy hàng năm (đơn SHCN chưa kết thúc thẩm định nội dung bao gồm đơn đang được thẩm định nội dung dở dang, đơn đến thời hạn nhưng chưa được thẩm định nội dung và đơn chưa đến thời hạn thẩm định nội dung). Cột tỷ lệ đơn trong bảng 1 cho thấy thời hạn trung bình kết thúc thẩm định nội dung đơn KDCN (tính từ ngày nộp đơn), ví dụ năm 2017 là 1,11 năm.