1.Quy định của pháp luật

>> Xem thêm: Thời hạn kháng cáo quá hạn theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là bao lâu ?

Vấn đề thời hạn kháng cáo và kháng nghị đối với bản án, quyết định trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 333 và Điều 337 BLTTHS năm 2015, cụ thể Điều 333 quy định: “1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

Ngày kháng cáo được xác định như sau:

a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính nơi gửi;

b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;

c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo.”

Và Điều 337 về thời hạn kháng nghị:

“1. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án.

2.Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.”

Theo quy định thì thời hạn kháng cáo và thời hạn kháng nghị được quy định tại các Điều luật khác nhau trong khi đó thì vấn đề thời hạn kháng cáo, thời hạn kháng nghị của BLTTHS năm cũ được quy định trong một điều luật, cụ thể quy định tại Điều 234 Thời hạn kháng cáo, kháng nghị, cụ thể: “Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn.”

Qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng chúng tôi thấy thực chất vấn đề thời hạn kháng cáo và kháng nghị giữa BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm cũ về cơ bản không có gì thay đổi mà thực chất BLTTHS năm 2015 chỉ quy định rõ hơn nội hàm của thời hạn kháng cáo, kháng nghị là đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Vấn đề thời hạn kháng cáo và kháng nghị theo quy định của BLTTHS 2015 chưa có văn bản hướng dẫn, nhưng so với BLTTHS năm cũ không có gì khác do vậy, chúng ta vẫn phải vận dụng theo hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 12 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS để áp dụng.

2. Vướng mắc trong thực tiễn

>> Xem thêm: Kháng nghị là gì ? Quy định của pháp luật về kháng nghị

Thực tế hiện nay việc vận dụng và áp dụng BLTTHS năm 2015 đối với vấn đề xác định thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hiện nay chúng tôi thấy còn chưa có sự thống nhất, cụ thể, chúng tôi đưa ra ví dụ để minh chứng cho điều này.

Ngày 11/12/2019 Tòa án xét xử sơ thẩm vụ án có mặt bị cáo Đ và cùng ngày tuyên án đối với bị cáo. Việc xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo đối với bị cáo Đ, thời hạn kháng nghị đối với Viện Kiểm sát có 02 quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của kháng cáo, kháng nghị và bản án có hiệu lực pháp luât đối với ví dụ trên cụ thể là: Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày 12 tháng 12 năm 2019, do vậy ngày kết thúc thời hạn kháng cáo là vào lúc 24 giờ ngày 27/12/2019 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ); ngày kết thúc kháng nghị của Viện Kiểm sát cùng cấp là vào lúc 24 giờ ngày 27/12/2019 và của Viện Kiểm sát cấp trên là 10/01/2020 (do tháng 12 có 31 ngày) (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ). Do vậy, bản án đối với bị cáo Đ sẽ có hiệu lực ngày 11/02/2020. Cách tính này vận dụng áp dụng theo hướng dẫn tại tiểu mục 4.1 mục 4 của Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 12 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì “thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện Kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của kháng cáo, kháng nghị và bản án có hiệu lực pháp luât đối với ví dụ trên cụ thể là: Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày 11 tháng 12 năm 2019, do vậy ngày kết thúc thời hạn kháng cáo là vào lúc 24 giờ ngày 26/12/2019 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ); ngày kết thúc kháng nghị của Viện Kiểm sát cùng cấp là vào lúc 24 giờ ngày 26/12/2019 và của Viện Kiểm sát cấp trên là 09/01/2020 (do tháng 12 có 31 ngày) (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ). Do vậy, bản án đối với bị cáo Đ sẽ có hiệu lực ngày 10/02/2020. Cách tính này hiểu và vận dụng áp dụng đúng quy định tại các Điều 333 và Điều 337 BLTTHS năm 2015 đó là tính thời điểm bắt đầu xác định thời hạn kháng cáo, kháng nghị đó là “ngày tuyên án”. Do vậy, đối với ví dụ trên bị cáo Đ ngày tuyên án là 11/12/2019 thì ngày xác định thời hạn kháng cáo là 15 ngày phải tính từ ngày 11/12/2019 chứ không thể xác định là ngày tiếp theo của ngày tuyên án như quan điểm thứ nhất được. Quan điểm này lập luận và đặt tình huống ví như sau khi tuyên án thì ngay ngày 11/12/2019 bị cáo Đ kháng cáo ngay thì chúng ta xử lý như thế nào, lập biên bản hay hướng dẫn về việc bị cáo thực hiện quyền ở ngày tiếp theo của ngày xác định tức là ngày 12/12/2019, như vậy rõ ràng là không đúng.

Trên đây là hai quan điểm về việc xác định thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị và hiệu lực của bản án. Mặc dù các quan điểm này chỉ có cách hiểu và áp dụng khác nhau đó là xác định là ngày tuyên án hay ngày tiếp theo của ngày tuyên án. Từ cách hiểu và áp dụng đó dẫn đến có sự xê dịch 01 ngày trước hoặc sau. Mặc dù, có sự xê dịch chỉ 01 ngày nhưng nó lại có các hậu quả pháp lý khác nhau ví như xác định thời điểm kết thúc của thời hạn kháng cáo. Ví như trường hợp của bị cáo Đ thì nếu hiểu và áp dụng như quan điểm thứ nhất thì thời hạn kháng cáo kết thúc vào ngày 27/12/2019 nhưng quan điểm thứ hai sẽ không phải là ngày 27/12/2019 mà là ngày 26/12/2019. Do vậy, nếu bị cáo Đ kháng cáo là ngày 27/12/2019 (hoặc có xác nhận của Trại, hay của Bưu điện) thì đều là trường hợp kháng cáo quá hạn và cấp sơ thẩm phải lập hồ sơ kháng cáo quá hạn để cấp phúc thẩm lập Hội đồng xem xét kháng cáo quá hạn theo quy định.

3. Cách tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị trong tố tụng hình sự

>>Xem thêm :Thủ tục và hình thức kháng cáo, kháng nghị vụ án hình sự ?

Theo đó Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm cũ quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị như sau:

“1. Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.

2. Nếu đơn kháng cáo gửi qua đường bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn.”

Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 5 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự, tại tiểu mục 4.1 mục 4 phần I của Nghị quyết hướng dẫn cụ thể thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị như sau:

a) Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên toà hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà.

Ví dụ 1: Ngày 10-10-2005 Toà án xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có mặt bị cáo B và cùng ngày tuyên án đối với bị cáo B. Trong trường hợp này ngày được xác định là ngày 10-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với bị cáo B), thời hạn kháng nghị mười lăm ngày (đối với Viện kiểm sát cùng cấp), ba mươi ngày (đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp) là ngày 11-10-2005.

Ví dụ 2: Ngày 12-10-2005 Toà án xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vắng mặt người bị hại là A và cùng ngày tuyên án. Ngày 20-10-2005 Toà án mới giao bản án cho A hoặc niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi A cư trú. Trong trường hợp này ngày được xác định là ngày 20-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với A) là ngày 21-10-2005.

Trong trường hợp ngay trong ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định mà bị cáo, đương sự có mặt tại phiên toà có đơn kháng cáo ngay, thì Toà án cấp sơ thẩm nhận đơn kháng cáo theo thủ tục chung.

b) Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó.

Ví dụ 1: Trong ví dụ 1 nêu tại điểm a tiểu mục 4.1 mục 4 này, thời hạn kháng cáo mười lăm ngày được tính bắt đầu từ ngày 11-10-2005. Theo quy định tại Điều 96 của BLTTHS thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với bị cáo B) kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 25-10-2005 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ).

Ví dụ 2: Trong ví dụ 2 nêu tại điểm b tiểu mục 4.1 mục 4 này, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày được tính bắt đầu từ ngày 21-10-2005. Theo quy định tại Điều 96 của BLTTHS thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với A) kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 04-11-2005. Giả sử ngày 04-11-2005 đúng vào ngày nghỉ lễ thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 05-11-2005(nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần); giả sử sau ngày nghỉ lễ (04-11-2005), ngày 05-11-2005 đúng vào ngày thứ bảy, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 07-11-2005.

Tại Điều 333 BLTTHS năm 2015 quy định.

“1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

3. Ngày kháng cáo được xác định như sau:

a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính gửi;

b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;

c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhân được đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo.”

Tại Điều 337 BLTTHS năm 2015 quy định:

“1.Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.”

Tuy nhiên qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng có sự vướng mắc về cách tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị đó là:

1. Trong thời hạn 15 ngày kháng cáo, kháng nghị nhưng trong thời hạn đó có trùng ngày nghỉ lễ, nghỉ tết (ví dụ nghỉ lễ, nghỉ tết là 3 ngày 5 ngày, 7 ngày….) nhưng những ngày nghỉ lễ, nghỉ tết này không trùng vào ngày cuối cùng của thời hạn thì tính thế nào? Có trừ những ngày này để tính thời hạn kháng cáo kháng nghị không?

Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này:

– Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị có ngày nghỉ lễ, tết nhưng không trùng vào ngày cuối cùng của thời hạn thì được trừ những ngày này không tính vào thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

– Quan điểm thứ hai cho rằng nếu trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị có ngày nghỉ lễ, tết nhưng không trùng vào ngày cuối cùng của thời hạn thì không được trừ những ngày này để tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Theo quan điểm của cá nhân thì đồng ý với quan điểm thứ nhất bỡi vì khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Như vậy nếu không trừ những ngày nghỉ lễ, nghỉ tết thì không có sự bình đẳng (công bằng) so với những người có quyền kháng cáo khác mà thời hạn kháng cáo không có ngày nghỉ lễ, tết. Để không có những quan điểm khác nhau theo tôi cần quy định rõ thời hạn kháng cáo, kháng nghị được tính là ngày làm việc.

2. Theo quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) năm cũ thì đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên trong trường hợp xét xử bị cáo (tại ngoại) có mặt nhưng khi tuyên án vắng mặt, các đương sự khác khi xét xử có mặt, nhưng khi tuyên án vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính như thế nào? tính bị cáo, đương sự có mặt hay tính vắng mặt hiện nay cũng chưa có hướng dẫn cụ thể.

4. Từ các vướng mắc trên kiến nghị

>>Xem thêm :Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự ?

Sửa đổi bổ sung Điều 333 BLTTHS năm 2015 như sau:

Điều 333. Thời hạn kháng cáo

1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 10 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng, thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng, thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày kết thúc việc tuyên án.

2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày làm việc kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

3. Ngày kháng cáo được xác định như sau:

a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính gửi;

b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;

c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhân được đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo

– Sửa đổi bổ sung Điều 337 BLTTHS năm 2015 như sau:

Điều 337. Thời hạn kháng nghị

1.Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 10 ngày làm việc, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 20 ngày làm việc kể từ ngày Tòa tuyên án.

2.Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày làm việc, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

5. Quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo

>>Xem thêm :Quy định về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự ?

Điều 333. Thời hạn kháng cáo

1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

3. Ngày kháng cáo được xác định như sau:

a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính nơi gửi;

b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;

c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, luật tố tụng hình sự – Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.

Trân trọng./.

>> Xem thêm: Thời hạn kháng cáo quá hạn theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là bao lâu ?

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group