1.Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam

Bắt đầu từ năm 1986, theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã tiến hành thực hiện quá trình cải cách và mở cửa, trong đó việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới là những mục tiêu chính mà Việt Nam hướng tới. Ở trong nước, đường lối đổi mới tập trung vào việc tái cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu. Về đối ngoại, Việt Nam thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, trong đó có việc thiết lập các mối quan hệ kinh tế với thế giới. Nhằm tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế, ở cấp độ song phương, Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Năm 1994, việc Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam đã đánh dấu sự chuyển mình quan trọng trong quan hệ kinh tế song phương đó. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 1995, Hội nghị cấp cao Á-Âu (‘ASEM’) năm 1996 và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (‘APEC’) năm 1998. Có thể nói, việc tham gia vào các thể chế khu vực nói trên đã tạo ra bước chuẩn bị cần thiết cho Việt Nam tham gia vào các quan hệ kinh tế-thương mại toàn cầu, trong đó gia nhập WTO là mục tiêu mà Việt Nam hướng tới, bởi điều đó đánh dấu sự hội nhập đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Ngày 4/1/1995, Việt Nam đã chính thức đệ trình đơn xin gia nhập lên WTO. Đại hội đồng WTO, sau đó, đã chấp thuận đơn xin gia nhập của Việt Nam và chính thức thành lập Nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Các thành viên của Nhóm công tác này bao gồm Ác-hen-ti-na, Úc, Brazil, Bru-nây, Bun-ga-ri, Cam-pu-chia, Ca-na-đa, Chi-lê, Trung Quốc, Cô-lôm-bi-a, Crô-a-ti-a, Cu Ba, Cộng hoà Đô-mi-ni-ca, Ai Cập, En San-vađo, EU và các nước thành viên, Hôn-đu-rát, Hồng Kông, Ai-xơ-len, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hoà Kiếc-gy-zi, Ma-lai-xi-a, Mêhi-cô, Ma-rốc, Mi-an-ma, Niu Di-lân, Na Uy, Pa-ki-xtan, Pa-na-ma, Pa-ragoay, Phi-líp-pin, Ru-ma-ni, Xinh-ga-po, Xri Lan-ka, Thụy Sỹ, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và U-ru-goay. Chủ tịch Nhóm công tác trong giai đoạn 1998-2004 là Đại sứ Seung Ho (người Hàn Quốc), và trong giai đoạn 2004-2006 là Đại sứ Eirik Glene (người Na Uy). Tháng 8/1996, Việt Nam hoàn thành Bị vong lục (Memorandum) về chế độ ngoại thương của Việt Nam và đệ trình văn kiện này tới Ban thư kí WTO để chuyển tới các thành viên của Nhóm công tác. Bị vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà còn cung cấp các thông tin chi tiết về các chính sách liên quan đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và IPRs. Sau khi gửi Bị vong lục, Việt Nam đã nhận được khoảng 3.516 câu hỏi của các thành viên Nhóm công tác đưa ra. Với danh mục 3.516 câu hỏi này, Việt Nam nhận thấy không thể gia nhập WTO ‘một sớm, một chiều’, bởi vì để có thể trả lời được hết những câu hỏi đó, cần phải có những sự thay đổi đáng kể và quan trọng, mang tính hệ thống, của nền kinh tế và hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, những lo ngại về chính trị cũng như những yêu cầu Việt Nam phải đưa ra những nhượng bộ lớn hơn cũng đã kéo dài thời gian đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Thực tế cho thấy, ngay từ giai đoạn chuẩn bị đầu tiên, Việt Nam đã gặp phải những khó khăn nêu trên. Dù Bị vong lục được hoàn thành và đệ trình cho Nhóm công tác vào năm 1996, nhưng phải đến năm 1998, Nhóm công tác mới hoàn thành việc xây dựng kế hoạch cho các cuộc đàm phán đa phương, và Việt Nam phải trải qua 14 phiên đàm phán đa phương với Nhóm công tác. Phiên đàm phán đầu tiên diễn ra trong hai ngày 30-31/7/1998 và phiên cuối cùng kết thúc vào ngày 26/10/2006. Tại phiên đàm phán lần thứ 5 của Nhóm công tác, diễn ra vào ngày 7/1/2002, Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ, sau đó Bản chào này được sửa đổi và bổ sung ba lần vào các năm 2004, 2005 và 2006. Trong các lần sửa đổi này, Bản chào được đưa ra vào phiên họp thứ 8 của Nhóm công tác vào tháng 6/2004 đã tạo ra bước thay đổi quan trọng cho quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, với sự hoan nghênh của các thành viên Nhóm công tác. Sau một số phiên đàm phán, các đối tác thương mại của Việt Nam đồng ý bắt đầu dự thảo Báo cáo của Nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Về đàm phán song phương, lúc đầu có khoảng hơn 40 thành viên WTO đề nghị đàm phán song phương với Việt Nam. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực ngoại giao, cuối cùng số thành viên WTO đề nghị đàm phán song phương rút lại còn 28, trong đó có Hoa Kỳ, EU (được tính là một thành viên đại diện cho 25 quốc gia thành viên) và Trung Quốc. Ngay trong năm 2004 – năm bắt đầu các cuộc đàm phán song phương, Việt Nam đã đạt được thoả thuận với đối tác quan trọng là EU. Thoả thuận với Trung Quốc hoàn thành vào năm 2005. Đối với đối tác quan trọng nhất – Hoa Kỳ, Việt Nam đã phải trải qua quá trình đàm phán song phương rất khó khăn, vì Hoa Kỳ đã đưa ra những yêu cầu khá cao mà một số yêu cầu có thể được coi là ‘không thể chấp nhận được’ đối với Việt Nam. Những yêu cầu đó đã làm cho kế hoạch mà Việt Nam đặt ra là gia nhập WTO vào cuối năm 2005 đã không thành hiện thực, bởi quan điểm của đoàn đàm phán Việt Nam là ‘không gia nhập WTO bằng mọi giá’. Thoả thuận kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ chỉ đạt được vào tháng 5/2006. Đây cũng là thoả thuận đàm phán song phương thứ 28 mà Việt Nam đạt được. Việc kí thoả thuận này cho phép Tổng thống Hoa Kỳ có thẩm quyền cần thiết để dành cho Việt Nam quy chế ‘Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn’ (‘Permanent Normal Trade Relations’, viết tắt là ‘PNTR’). Đạo luật về trao PNTR cho Việt Nam đã được Hạ viện và Thượng viện Hoa Kỳ, sau nhiều lần trì hoãn, bỏ phiếu thông qua vào ngày 9/12/2006 và được Tổng thống Bush kí phê chuẩn vào ngày 20/12/2006. Việc trao cho Việt Nam PNTR một mặt đánh dấu ‘sự bình thường hoá hoàn toàn quan hệ song phương Việt Nam-Hoa Kỳ’, mặt khác mở đường cho Việt Nam thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Đàm phán song phương kết thúc là điều kiện tiên quyết để kết thúc quá trình đàm phán đa phương về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Vào ngày 19/10/2006, Nhóm công tác họp phiên thứ 13 để xem xét và hoàn chỉnh Báo cáo gia nhập WTO của Việt Nam. Tuy nhiên, Bộ văn kiện về việc Việt Nam gia nhập WTO, bao gồm Báo cáo của Nhóm công tác, Dự thảo Nghị định thư gia nhập và các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, chỉ được hoàn tất ở phiên họp thứ 14 diễn ra vào ngày 26/10/2006. Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam kết thúc vào ngày 7/11/2006, khi Đại hội đồng họp phiên đặc biệt để xem xét và biểu quyết kết nạp Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Nghị định thư gia nhập được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn vào ngày 28/11/2006. Ngày 12/12/2006, WTO nhận được văn bản phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Một tháng sau đó, ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này và một ngày sau, những quyền và nghĩa vụ của Việt Nam, với tư cách là thành viên mới của WTO sẽ bắt đầu được thực thi.

2. Tóm tắt về nền kinh tế thị trường và dệt may trong tóm tắt cam kết của Việt Nam vào WTO 

1.Nền kinh tế phi thị trường (NME)

 Việt Nam chấp nhận bị coi là NME trong 12 năm (không muộn hơn ngày 31/12/2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu chứng minh được với đối tác nào đó là nền kinh tế Việt Nam đã hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường, thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng cơ chế ‘phi thị trường’. Cơ chế ‘phi thị trường’ nói trên có ý nghĩa trong các vụ kiện AD.

 2. Dệt may

 – Các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam. Trong trường hợp Việt Nam vi phạm quy định của WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may, thì một số thành viên có thể áp dụng biện pháp trả đũa nhất định.

 – Thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của Việt Nam.

3. Về trợ cấp phi nông nghiệp và trợ cấp nông nghiệp 

1. Trợ cấp phi nông nghiệp

– Loại bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO (‘trợ cấp xuất khẩu’ và ‘trợ cấp thay thế nhập khẩu’);

– Đối với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu với thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).

2. Trợ cấp nông nghiệp

 – Không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Đối với những loại hỗ trợ mà WTO quy định phải giảm, Việt Nam thoả thuận được duy trì ở mức không quá 10% ‘tổng lượng hỗ trợ tính gộp’ (‘AMS’). Ngoài mức này, Việt Nam còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỉ đồng mỗi năm.

– Bảo lưu quyền được hưởng một số quy định về đối xử S&D của WTO dành cho DCs trong lĩnh vực này.

– Đối với các loại hỗ trợ mang tính chất khuyến nông hay phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép, Việt Nam có quyền áp dụng không hạn chế.

4. Về quyền kinh doanh và huế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia 

1. Quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá)

– Cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất, nhập khẩu hàng hoá như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu sau một thời gian chuyển đổi, như gạo và dược phẩm.

 – Cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng kí quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Đây chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu.

– Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của Việt Nam trong việc đưa ra các quy định để quản lí dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo-tạp chí..

2. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia

– Việt Nam có thời gian chuyển đổi không quá ba năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định của WTO.

– Đối với rượu trên 20 độ cồn, Việt Nam hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, Việt Nam sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.

5.Doanh nghiệp nhà nước/doanh nghiệp thương mại nhà nước

– Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

 – Với tư cách là một cổ đông, nhà nước có quyền can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác.

– Việt Nam cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của doanh nghiệp nhà nước không phải là mua sắm chính phủ.

6.Tỉ lệ cổ phần để thông qua quyết định tại doanh nghiệp

Việt Nam cho phép các bên tham gia liên doanh được thoả thuận về tỉ lệ vốn góp hoặc tỉ lệ cổ phần để thông qua quyết định trong điều lệ công ty.

 Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu

– Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân khối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007.

– Với thuốc lá điếu và xì gà, Việt Nam đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, sẽ chỉ có một doanh nghiệp nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà (VINATABA).

– Với ô-tô cũ, Việt Nam cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.

 Minh bạch hoá

 Việt Nam cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ công bố công khai các văn bản pháp luật trên.

Một số nội dung khác

 Về thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và phế liệu kim loại màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Việt Nam còn đàm phán một số vấn đề khác như bảo hộ IPRs, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan nhà nước; xác định trị giá tính thuế hải quan; các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại; các rào cản kỹ thuật trong thương mại… Với các nội dung này, Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập.

Luật LVN Group (sưu tầm và biên tập)