1. Chính quyền tự quản địa phương là gì?

Chính quyền tự quản địa phương biểu thị quyền và khả năng của chính quyền địa phương, trong giới hạn của luật pháp điều tiết và quản lý một phần đáng kể các họat động công cộng theo đúng trách nhiệm của mình và vì lợi ích của nhân dân địa phương”.

2. Cơ sở của tổ chức tự quản địa phương

Khi nhà nước chưa ra đời, loài người cũng tự biết tổ chức lại và sống thành các tổ chức xã hội đầu tiên như thị tộc, bộ lạc hay các công xã theo giáo phận ở phương Tây, công xã nông thôn ở phương Đông. Đó là các tổ chức tự quản đầu tiên của xã hội loài người. Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, nhà nước ra đời, thì các công xã theo giáo phận ở phương Tây, công xã nông thôn ở phương Đông vẫn tồn tại và nó là các tổ chức tự quản đầu tiên trong các nhà nước. Sự bền vững của các công xã theo giáo phận ở phương Tây cao đến nỗi, chế độ tự quản địa phương đang được áp dụng trong các nước này ngày nay đa phần đều được xây dựng trên cơ sở các giáo phận, như ở Pháp, Anh, Thụy Điển, Nga… Còn sự bền vững của các công xã nông thôn ở phương Đông biểu hiện qua sự tồn tại lâu đời của chế độ tự trị làng xã, ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng.

Nhưng quyền lực nhà nước vốn luôn có nhu cầu được tập trung và cơ quan hành chính là thiết chế thể hiện tập trung bản chất cai trị của nhà nước. Nhưng khi xã hội phát triển, dân chủ được thừa nhận rộng rãi ở các cộng đồng dân cư thì mới đặt ra nhu cầu phải có các hình thức quản lý dân chủ. Do đó, bên cạnh bộ máy hành chính là sự ra đời của các cơ quan đại diện làm nhiệm vụ tư vấn hay tự quản dưới hình thức Hội đồng tự quản hay Hội nghị nhân dân và khi đó, khái niệm bộ máy chính quyền địa phương không còn bó hẹp trong phạm vi cơ quan hành chính địa phương mà còn có cả tổ chức tự quản địa phương.

Cách thức tổ chức chính quyền tự quản địa phương của mỗi nhà nước gắn liền với việc phân chia lãnh thổ quốc gia. Thông thường, có hai loại đơn vị lãnh thổ trong một nhà nước là đơn vị lãnh thổ tự nhiên và đơn vị lãnh thổ nhân tạo.

Tổ chức tự quản địa phương được hình thành theo các đơn vị lãnh thổ tự nhiên là chủ yếu, nói cách khác, tổ chức tự quản địa phương khó có thể hình thành được trên cơ sở là đơn vị lãnh thổ nhân tạo. Với đơn vị lãnh thổ nhân tạo – là lãnh thổ do chính nhà cầm quyền thiết lập nên phần nhiều với mục đích “chia để trị” – sự phân chia lãnh thổ ấy phụ thuộc vào ý chí chủ quan và nhận thức cá nhân của nhà cầm quyền với mục đích cai trị là chủ yếu, dĩ nhiên từ bộ máy, nhân sự đến nguyên tắc quản lý của các vùng địa phương nhân tạo ấy đều được xây dựng như một bộ phận thuộc trung ương, do đó cơ sở cho nhân tố tự quản hình thành gần như không có. Ngược lại với đơn vị lãnh thổ nhân tạo, đơn vị lãnh thổ tự nhiên là các vùng địa giới hình thành một cách tự nhiên, lâu dài trong lịch sử, dân cư quy tụ lại thành cộng đồng theo lối quần cư, có quan hệ chặt chẽ, lâu đời, thường là theo dấu hiệu huyết thống, nghề nghiệp, dân tộc, các đặc điểm chung về địa lý tự nhiên, truyền thống văn hóa, lịch sử… Không có một khuôn mẫu chung cho các lãnh thổ này về số lượng cũng như mật độ dân cư, diện tích lãnh thổ và đặc điểm địa lý, có thể là đô thị hay nông thôn, miền núi hoặc miền xuôi, đất liền hoặc hải đảo… Vì là lãnh thổ tự nhiên nên việc tổ chức quản lý lãnh thổ này rất cần tính đến nguyện vọng và ý chí của dân cư địa phương để tránh những thương tổn về tâm lý, chính trị mà chắc chắn sẽ phát sinh nếu trung ương áp đặt những khuôn mẫu chung mà không tính đến cũng như không thấy được những đặc thù vốn có của địa phương. Vì thế tổ chức chính quyền địa phương nơi đây cần mang nhiều tính tự quản và nó gắn liền với sự ra đời của tổ chức tự quản địa phương.

3. Vai trò của chính quyền tự quản địa phương và việc phát huy dân chủ, đảm bảo quyền con người

3.1. Tác động tích cực

Nguyên tắc chính quyền tự quản địa phương được coi là một yếu tố quan trọng của các nguyên tắc cơ bản về dân chủ, cao hơn nữa là đảm bảo quyền con người; sự bảo đảm về tính độc lập chính trị, hành chính và tài chính của chính quyền địa phương là những viên đá tảng đầu tiên của một nền dân chủ thực thụ.

Thứ nhất, tổ chức tự quản địa phương sẽ đảm bảo thực hiện nguyên tắc “quyền lực nhân dân” trên thực tế.

Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, nếu vì lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà nhân dân không tự mình thực hiện được thì quyền lực sẽ được ủy quyền cho thiết chế đại diện nhân dân và chính quyền trung ương là cấp đại diện cao nhất. Càng về cấp cơ sở thì tính đại diện càng thực chất và rõ ràng hơn, người dân thấy được quyền lực của mình đang được trực tiếp thực hiện. Theo đó, tự quản địa phương là mô hình tối ưu để thực hiện một cách hợp lý nguyên tắc “nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước”. Cụ thể:

Khi có tự quản, người dân sẽ có quyền thể hiện quan điểm, có quyền tự quyết các vấn đề ở địa phương, nói cách khác, đó là quyền quyết định các công việc gắn liền với đời sống của mỗi người dân một cách trực tiếp hoặc thông qua cơ quan tự quản địa phương của mình. Ví dụ như, theo Luật “Về những nguyên tắc chung tổ chức tự quản địa phương ở Liên bang Nga” năm 1993 thì “tự quản địa phương là việc nhân dân địa phương trực tiếp hoặc thông qua cơ quan tự quản địa phương quyết định một cách tự chủ và tự chịu trách nhiệm các vấn đề có ý nghĩa địa phương xuất phát từ lợi ích của nhân dân địa phương với sự tính đến các truyền thống lịch sử và các truyền thống khác của địa phương đó”;

Người dân có quyền trực tiếp lựa chọn người đại diện cho mình để đề ra các chính sách phát triển cho cộng đồng địa phương, được tự do trực tiếp lựa chọn người điều hành cuộc sống hàng ngày tại địa phương của mình. Đó là các cơ quan riêng để giải quyết các công việc thuộc về địa phương, những cơ quan này không nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Đóng vai trò quan trọng nhất là cơ quan đại diện do nhân dân địa phương bầu ra theo nhiệm kỳ. Ngoài ra, còn có các cơ quan hành chính địa phương, là cơ quan chấp hành của cơ quan đại diện, có thể do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc do cơ quan đại diện bầu ra. Cơ quan hành chính này chỉ trực thuộc và chịu trách nhiệm trước cơ quan đại diện, trước nhân dân địa phương chứ không trực thuộc hay chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính cấp trên. Cấu trúc của các cơ quan của chính quyền tự quản địa phương sẽ được quyết định bởi cư dân của địa phương một cách độc lập. Ngoài ra, tính phi nhà nước của cơ quan tự quản địa phương cũng góp phần chứng minh tính dân chủ của mô hình này;

– Quyền lực và tham nhũng luôn đi đôi với nhau và tự quản địa phương chính là phương thức kiểm soát và hạn chế tham nhũng một cách hiệu quả, cho phép ngăn chặn mọi nguy cơ hỗn loạn. Lịch sử đã chứng minh rằng, nếu họat động của các quan chức địa phương không được kiểm soát thì nông dân ở các làng xã sớm muộn cũng tấn công lại các quan chức địa phương. Giải pháp duy nhất là hình thành các chính quyền tự quản để nhân dân có cơ hội lựa chọn và kiểm soát cán bộ.

Tuy nhiên, không phải ai cũng chấp nhận mô hình tự quản vì họ cho rằng, “dân chủ như là món đồ trang sức” không cần thiết, nhất là đối với nông dân vì nông dân chưa hiểu thế nào là dân chủ dù là ở mức đơn giản nhất. Nhưng thực tế lại đòi hỏi dân chủ như một phương thức duy trì trật tự ở nông thôn, nông dân dù không hiểu lý luận về dân chủ nhưng cần dân chủ để sống và lao động.

Thứ hai, tự quản địa phương sẽ đáp ứng nhu cầu xây dựng một nhà nước phục vụ.

Một nhà nước phục vụ là cơ sở cho một nền dân chủ đích thực, khi những giá trị của con người được đề cao thì mọi phương thức tổ chức chính quyền đều nhằm hướng đến phục vụ con người được tốt hơn. Khi có tự quản địa phương, người dân địa phương sẽ được hưởng tốt nhất các loại dịch vụ ở địa phương. Ý nghĩa này có vai trò quan trọng nên thậm chí ở các đô thị tự quản việc cung cấp dịch vụ được coi là mục đích cơ bản và quan trọng nhất để trung ương quyết định trao quyền tự quản cho địa phương. Từ phân cấp theo ngành chuyển sang phân cấp mạnh theo lãnh thổ nên các lãnh thổ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp các dịch vụ công và các dịch vụ an sinh xã hội, người dân được bảo vệ và có cuộc sống thoải mái, tiện nghi tại địa phương. Ví dụ, “Công xã đô thị Anh, với quyền tự chủ mạnh mẽ của mình đã đạt được những thành tựu tốt nhất trong lĩnh vực xây dựng tiện nghi đô thị và ngược lại, không có một đô thị nào lại kém tiện nghi hơn các đô thị Nga vốn phụ thuộc hoàn toàn vào sự bao cấp của Chính phủ”.

Thứ ba, việc tổ chức địa phương tự quản là phương thức tổ chức chính quyền tốt nhất để “giải phóng” con người khỏi sự bóc lột và cai trị của quyền lực nhà nước. Nhà nước càng có nhiều cấp chính quyền thì mức độ cai trị càng nhiều, cấp chính quyền này chồng lên cấp chính quyền kia. Khi có tự quản địa phương thì cấp trên của địa phương tự quản chỉ là pháp luật và nhà nước trung ương, sẽ giải phóng cho người dân khỏi sự cai trị nhiều tầng, nhiều cấp. Ngoài ra, giữa địa phương và nhà nước trung ương lại có những quy định ràng buộc đảm bảo quyền tự chủ của địa phương.

Mục đích cuối cùng của mỗi nhà nước là cư dân phát triển, pháp luật được tôn trọng, tự do, dân chủ được đảm bảo và trên hết, quyền con người không bị xâm hại bởi các thiết chế của nhà nước. Tự quản địa phương sẽ đáp ứng được những điều đó vì tự địa phương sẽ làm cho mình phát triển, cạnh tranh với các địa phương khác, biết khai thác thế mạnh của địa phương mình, có tự quản sẽ không sinh ra ỷ lại, và hơn hết, pháp luật của nhà nước sẽ được tôn trọng một cách tự nhiên vì cái khung pháp lý đủ lớn cho những sáng tạo hợp lý của các địa phương.

3.2. Hạn chế

Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị rõ ràng thì tự quản địa phương cũng có các hạn chế nhất định.Đó là tâm lý “tự quản” dẫn đến sự co cụm của các cơ quan tự quản, tâm lý thờ ơ của dân cư địa phương trước những vấn đề chung của cả nước hay vấn đề của địa phương khác. Đặc biệt là trong trường hợp năng lực tự quản của các địa phương phát triển đến mức không cần đến sự hỗ trợ của trung ương hay các địa phương khác thì ngoài tâm lý thờ ơ là sự phân biệt khá lớn giữa các dân cư ở các địa phương tự quản với nhau, dù cùng là công dân của một nhà nước hay của một bang nhưng lại nhận được các phúc lợi và các dịch vụ ở các mức độ khác nhau.

Nhưng những hạn chế trên có thể khắc phục, như có thể biến cái hạn chế thành cái tích cực, như biến tâm lý “địa phương chủ nghĩa” thành “lòng tự hào địa phương”, tăng tính chủ động, sáng tạo của địa phương, phát huy quyền làm chủ của người dân.

Tuy vậy, những điều kể trên về chính quyền tự quản địa phương không có nghĩa khẳng định mô hình chính quyền tự quản địa phương là tuyệt vời nhất, nếu một mô hình có phù hợp với một nơi nào đó thì do trước mắt chưa tìm được mô hình nào tốt hơn. Nhưng xét dưới góc độ dân chủ và vì sự đảm bảo quyền con người, thì trước mắt, chưa có mô hình tổ chức chính quyền địa phương nào tốt hơn tổ chức tự quản địa phương.

4. Kết luận

Xây dựng chế độ tự quản địa phương là xu hướng tất yếu của các nhà nước dân chủ hiện đại. Dù là một thử thách không nhỏ và sẽ có nhiều khó khăn nhưng một mô hình chính quyền địa phương dân chủ, hiện đại là giấc mơ của mọi nhà nước. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương phân quyền, tự quản vừa phát huy những giá trị vốn có của chế độ tự trị làng xã Việt Nam, vừa giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong cơ chế tập trung còn mang nhiều dấu ấn của thời bao cấp. Phát triển chính quyền địa phương Việt Nam theo mô hình này cũng là cách thể hiện bản lĩnh của Việt Nam trong xu thế hội nhập và trên tất cả những giá trị đó chính là vì sự phát triển của một nền dân chủ thực thụ, bảo đảm quyền con người và vì một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

Tự quản sẽ không đồng nghĩa với thoát ly và tự trị, quyền lực nhà nước vẫn là thống nhất và thuộc về nhân dân, Nhà nước trung ương sẽ thay mặt nhân dân đề ra những chính sách, chiến lược phát triển chung cho tất cả các địa phương, vẫn nắm giữ những quyền lực chủ chốt liên quan trực tiếp đến sự phồn thịnh và phát triển chung của cả nước. Còn lại, hãy để người dân được sử dụng phần quyền nào đó của mình để tự quản lấy cuộc sống của chính mình trong phạm vi nhất định, bước đầu có thể sẽ không mang kết quả như người dân mong muốn nhưng chắc chắn, họ sẽ hài lòng vì đó là quyết định của họ và họ đang là chủ của những quyết sách đó.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập