1. Tội phạm máy tính
Tội phạm về vi tính là tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội được thực hiện trong lĩnh vực công nghệ thông tin, có hành vị khách quan liên quan đến sử dụng máy tính và các tính năng của nó gây rối loạn hoạt động.
Phong toả hoặc làm biến dạng, làm huỷ hoại các dữ liệu hoặc đưa vào mạng những thông tin trái với quy định của pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng.
2. Nhóm hành vi của tội phạm máy tính
Tội phạm máy tính còn gọi là tội phạm liên quan phạm máy tính chủ yếu được quy định từ 3 nhóm hành vi:
1) Nhóm các hành vi gây rối loạn hoạt động phong toả hoặc làm biến dạng, làm huỷ hoại các dữ liệu máy tính bằng việc tạo ra và cố ý lan truyển phát tán các chương trình virút mạng máy tính;
2) Nhóm các hành vi gây rối loạn hoạt động phong toả hoặc làm biến dạng, làm huỷ hoại các dữ liệu máy tính do vi phạm các quy định về vận hành khai thác và sử dụng máy tính;
3) Nhóm các hành vi sử dụng trái phép thông tin hoặc đưa vào mạng các thông tin trải pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với nhóm hành vi sử dụng trái phép thông tin hoặc đưa vào mạng các thông tin trái pháp luật chủ thể của chúng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như trước đó đã bị xử lí hành chính mà còn vi phạm. Đối với hai nhóm trên, chỉ cần có hành vi tạo ra, tán phát vi rút hoặc vi phạm các quy định về vận hành, khai thác sử dụng máy là có thể bị xử lí hình sự nếu trước đó chủ thể đã bị xử lí hành chính về hành vi này.
Dưới đây chúng tôi sẽ làm rõ hơn và phân tích cụ thể về cấu thành tội phạm của một tội thuộc về lĩnh vực tội phạ máy tính, đó là tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3. Cơ sở pháp lý
– Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
“Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;
đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên;
c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
=> Việc làm rõ cấu thành tội phạm của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quyết định trong việc phân biệt tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với những tội phạm khác. Điều đó cũng có nghĩa là cấu thành tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là căn cứ pháp lý để Tòa án kết án một người có phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hay không. Khoa học về pháp luật hình sự xác định có 04 yếu tố cấu thành tội phạm, đó là: chủ thể tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm và khách thể của tội phạm. 04 yếu tố cấu thành tội phạm có mối liên hệ mật thiết, bổ trợ cho nhau.
4. Chủ thể của tội phạm
Những người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
5. Mặt khách quan của tội phạm
Để hiểu khái niệm “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” cần làm rõ các khái niệm sau:
Mạng máy tính là tập hợp nhiều máy tính kết nối với nhau, có thể chia sẻ dữ liệu cho nhau (Khoản 3 Điều 2 Thông tư 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn Bộ luật hình sự của năm 1999, sửa đổi, bổ sung 2009)
Mạng viễn thông là tập hợp thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông (Khoản 10 Điều 3 Luật Viễn thông của năm 2009)
Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự (Khoản 5 Điều 4. Giải thích từ ngữ Luật Giao dịch điện tử của năm 2005)
Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự (Khoản 10 Điều 4. Giải thích từ ngữ Luật Giao dịch điện tử của năm 2005)
Thương mại điện tử là việc tiến hành một khâu hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử (Khoản 5 Điều 2 Thông tư 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn bộ luật hình sự của năm 1999, sửa đổi, bổ sung 2009)
Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ (Khoản 6 Điều 2 Thông tư 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn Bộ luật hình sự của năm 1999, sửa đổi, bổ sung 2009)
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các công cụ phạm tội như sử dụng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet và phương tiện điện tử được (là hành vi hành động) được thể hiện ở một số dạng như sau:
– Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ là hành vi dùng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà người phạm tội biết được thông qua các cách thức khác nhau, rồi dùng thông tin đó để trả tiền hàng hóa, dịch vụ mà mình sử dụng mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu.
– Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Làm giả thẻ ngân hàng là việc cá nhân không có thẩm quyền sản xuất, phát hành thẻ ngân hàng nhưng sản xuất thẻ giống như thẻ ngân hàng (trong đó có chứa đựng thông tin, dữ liệu như thẻ của ngân hàng phát hành).
– Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa hoặc sử dụng mã truy cập của người khác mà không được sự cho phép của người đó để truy cập vào tài khoản không phải của mình.
– Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng là sử dụng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật về một sản phẩm, một vấn đề, lĩnh vực trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu trên mạng nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm cho họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó.
– Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi tạo ra một hệ thống viễn thông, internet mà không được pháp luật cho phép, nhằm thu hút khách hàng vào sử dụng và chiếm đoạt tài sản của họ.
Hậu quả: Không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Hậu quả chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên khi có hậu quả xảy ra thì hậu quả là dấu hiệu bắt buộc cần phải xem xét.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả: Không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội cướp tài sản. Tuy nhiên, nếu có hậu quả xảy ra thì việc xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả là dấu hiệu bắt buộc.
6. Mặt chủ quan của tội phạm
Nội hàm cụm từ “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” đã thể hiện người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh mạng, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, quyền sở hữu tài sản của người khác) vẫn mong thực hiện hành vi đó.
7. Khách thể của tội phạm
Tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản này xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh mạng, phương tiện điện tử, đồng thời xâm phạm quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân.
Trân trọng!