1. Khái niệm hình phạt
Hình phạt là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định.
Khi tòa án quyết định hình phạt chỉ được phép lựa chọn loại và mức hình phạt đã được quy định cụ thể tại khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Bởi lẽ, khi xây dựng luật, nhà làm luật đã cân nhắc đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của những trường hợp phạm tội khác nhau để có thể phân loại ra thành những tội phạm khác nhau và những khung hình phạt khác nhau.
Bộ luật hình sự hiện nay không quy định về khung hình phạt cứng điều này có nghĩa là sẽ có một mức hình phạt cố định để áp dụng cho tội phạm nhưng trong mỗi khung hình phạt cũng có mức tối thiểu và tối đa. Điều này cho phép Tòa án có thể có thể lựa chọn được loại và mức hình phạt phù hợp với những đối tượng tội phạm cụ thể.
2. Khái niệm tù có thời hạn
Theo Điều 30 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 :
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế độ tiêu cực nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, Tòa án quyết định áp dụng cho người hoặc pháp nhân phạm tội nhằm loại bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại “.
Như vậy, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong các hệ thống biện pháp cưỡng chế và được Nhà nước sử dụng như một công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh phòng chống và chống tội phạm. Tính nghiêm khắc thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế các quyền tự do, các quyền về tài sản, thậm chí cả quyền sống của người bị kết thúc. Đồng thời hình phạt bao giờ cũng để lại hậu quả pháp lý nhất định cho người được kết đó là án tích. Sau khi chấp hành xong hình phạt theo bản án, người bị kết phải mang án tích trong một thời gian nhất định theo quy định của pháp luật, trong khoảng thời gian này, tôi mới có thể bị coi là tái phạm vi, hoặc tái phạm vi nguy hiểm và coi đây là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm áp dụng cho người phạm tội khi quyết định hình phạt. Tính nghiêm khắc của hình phạt còn được thể hiện ngoài hình phạt chính người phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú hay cấm hành nghề, công việc nhất định. Đây là những biện pháp hỗ trợ cho hình phạt chính nhằm xử lý một cách triệt để đối với người phạm tội.
Hình phạt chỉ được quy định bởi BLHS trong mọi trường hợp tác không thể áp dụng một loại hình phạt nào đó nếu hình phạt đó không được quy định trong hệ thống hình phạt ở phần chung và không được quy định trong chế tài của điều luận mà hành vi bị xử phạt ở phần chung và không được quy định trong chế tài của điều luật mà hành vi vị xử phạt thỏa mãn ở các phần tội phạm.
Trong áp dụng hình phạt chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng hình phạt với người phạm tội, ngoài tòa án không có cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt. Hình phạt chỉ có áp dụng đối với người phạm tội. Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự nước ta là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân hoặc pháp nhân phạm tội. Do đó, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hôi được coi là tội phạm.
Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước ta hiện nay gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Theo Điều 32 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, hình phạt chính gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định từ 03 tháng đến 20 năm để giáo dục, cải tạo người phạm tội. Thực chất, tù có thời hạn là cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường xã hội bình thường họ đã sống để giáo dục, cải tạo. Trong thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người bị kết án phải chấp hành đầy đủ các nội quy, quy chế của trại giam.
Trong luật hình sự Việt Nam, tù có thời hạn là hình phạt truyền thống và có lịch sử lâu đời, là hình phạt chính được quy định thành phố biến trong các chế tài của luật. Trong thực tiễn xét xử, tù thời hạn được coi là loại hình phạt hữu hiệu nhất để đấu tranh với các loại tội phạm. Theo quy định tại Điều 38 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017:
“tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình tại cơ sở giam giữ trong một thời nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm tội có mức tối hiệu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian hạn chấp hành phạt tù, cứ một ngày tạm giũ, tạm giam bằng một ngày tù”.
Như vậy, hình phạt tù có thời hạn bắt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống hoạt động bình thường trong khoảng thời gian nhất định, họ phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ nhà nước.
3. Mục đích của tù có thời hạn
3.1 Mục đích phòng riêng
Mục tiêu phòng ngự có thể được thể hiện ở hình phạt áp dụng cho người, pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ dùng để trừng trị mà còn giáo dục trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Nội dung pháp lý cơ bản của vấn đề này chính là sự tước bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án. Mức độ của sự tước bỏ hay hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp của họ phụ thuộc vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân của người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trừng trị và cải tạo giáo dục người, pháp nhân thương mại phạm tội, ngăn chặn phạm vi tội mới là hai mục đích song song và tồn tại chặt chẽ với nhau. Chỉ có thể đạt được cuối cùng mục tiêu và chủ yếu là cải tạo, giáo dục người, pháp nhân thương mại phạm tội nếu hình phạt được áp dụng tương ứng với tính chất mức đô nguy hiểm của hành vi phạm tội họ gây ra. Trừng trị là mục đích nhưng cũng là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng chủ yếu của hình phạt. Trừng trị là cơ sở để giáo dục người bị kết án và ngược lại giáo dục là để phát huy mặt tích cực của trừng trị.
3.2 Mục đích phòng ngừa chung
Theo Bộ luật năm 2015, hình phạt còn mục tiêu “giáo dục họ có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn họ phạm tội mới, giáo dục người, pháp nhân thương mại tôn trọng pháp luật, phòng và đầu tranh chống phạm tội.
Mục đích phòng ngừa chung được thể hiện ở việc phòng ngừa người khác phạm tội, Nhà nước quy định hình phạt trong BLHS và đặc biệt khi áp dụng hình phạt đối với người có hành vi phạm tội, trong từng trường hợp cụ thể không chỉ trực tiếp tác động đến chính bản thân người phạm tội mà còn tác độn đến tâm lý những người khác trong xã hội.
Hình phạt có mục đích ngăn ngừa giáo dục người khác tuân theo pháp luật, từ bỏ ý định phạm tội hoặc thận trọng hơn trong xử sụ của mình để trở thành xử sự phạm tội.
4. Thời hạn của hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt tù luôn gắn liền mới một thời gian nhất định, đây là điểm để phân biệt với hình phạt tù chung thân, tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn. Thời hạn của hình phạt tù có thời hạn được hiểu là khoảng thời gian pháp luật cho phép có thể tước tự do của người bị kết án, khi người đó bị áp dụng loại hình phạt này.
Thời hạn quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn làm cơ sở cho việc quy định hình phạt tù có thời hạn trong các tội phạm cũng như việc quyết định hình phạt này trong thực tế.
Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn đối người người phạm tội là từ 3 tháng đến 20 năm. Đối với mỗi cấu thành tội phạm cụ thể, mức thấp nhất của hình phạt tù có thời hạn không thể dưới 3 tháng và mức cao nhất không thể vượt quá 20 năm. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dù ít nghiêm trọng đến đâu thì Tòa án cũng không thể quyết định mức hình phạt thấp hơn 3 tháng, trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (nếu không thuộc các trường hợp bị phạt tù chung thân đến tử hình) thì Tòa án cũng chỉ có thể áp dụng đến 20 năm tù.
Trong trường hợp phạm nhiều tội, hay phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì mức hình phạt chung không vượt quá 30 năm tù (Điều 55, 56 Bộ luật hình sự). Như vậy, theo quy định của BLHS thì mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm một tội là 20 năm, trong trường hợp phạm nhiều tội hay tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn đến 30 năm.
Trong phần các tội phạm của BLHDS thì mức tối hiểu 3 tháng của hình phạt tù có thời hạn quy định cơ bản ở các tội phạm ít nghiêm trọng, mức tối đa của hình phạt có thời hạn là 20 năm được quy định trong các cấu thành tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
5. Căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn
Thứ nhất, căn nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm được thực hiện. Khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, cần xem xét một cách tổng thể các tình tiết khác nhau của vụ án, trong đó quan trọng nhất là phải xem xét tính chất, tầm quan trọng và ý nghĩa của những quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm phạm.
Thứ hai, cân nhắc đến nhân thân của người bị kết tội. Tòa án phải xem xét các đặc điểm về nhân thân như cư xử trong cuộc sống, quan hệ với các thành viên trong gia đình, trong xã hội, tinh thần, thái độ đối với công việc chung, thái độ chấp hành kỷ luật, đạo đức, tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, thương bị, người trong gia đình là liệt sĩ,…
Thứ ba, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết khác nhau về tội phạm đã thực hiện, về nhân thân người phạm tội được quy định trong luật hoặc quy định cụ thể. Các tình tiết tăng nặng là những tình tiết khác nhau về tội phạm được quy định cụ thể trong luật và có ý nghĩa làm tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51, Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.