Luật sư tư vấn
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cho bộ phận tư vấn pháp luật dân sự của Công ty luật LVN Group, vấn đề bạn quan tâm Luật LVN Group xin trao đổi như sau:

1. Tôi có thể thương lượng với ngân hàng số tiền trên theo hình thức trả chậm và giảm lãi có được không?

Điều 471 Bộ luật dân sự quy định về hợp đồng vay tài sản:

“Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.

Theo quy định, khi đến hạn trả thì bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng, tự thỏa thuận trong giao lưu dân sự nên trường hợp anh có yêu cầu được trả tiền vay theo hình thức trả chậm và giảm lãi buộc phải được sự đồng ý của Ngân hàng trong khuôn khổ luật định.

Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác mà đến hạn anh không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền khởi kiện tại TAND có thẩm quyền theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc tố giác tội phạm tới cơ quan có thẩm quyền theo thủ tục tố tụng hình sự (nếu hành vi của anh có dấu hiệu của tội phạm).

Theo đó, không phải mọi trường hợp bên vay không thanh toán được nợ (tiền gốc và lãi) thì sẽ bị truy cứu TNHS. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp hành vi của bên vay nợ không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì Ngân hàng có quyền khởi kiện dân sự để kiện đòi tài sản. Theo bản án có TAND có thẩm quyền thì bên vay có nghĩa vụ tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại Luật thi hành án dân sự.

Vậy, chỉ trường hợp có đủ chứng cứ buộc tội anh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc một trong các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của công dân thì anh mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.

2. Tôi có phải trả sô tiền đó cho ngân hàng không?

Căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự, trường hợp bị truy cứu TNHS thì ngoài việc phải thi hành hình phạt theo phán quyết của TAND có thẩm quyền, anh còn phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả lại toàn bộ tài sản đã chiếm đoạt cho Ngân hàng.

Điều 42 Bộ luật hình sự quy định nghĩa vụ trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi:

“1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.

2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại”.

3. Tôi chết đi gia đình tôi có phải trả lại sô tiền kia không?

Điều 637. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.

3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Theo quy định, trường hợp anh chết thì vợ và các con chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản thừa kế mà anh để lại. Tức, nếu toàn bộ di sản thừa kế của anh để lại không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả 144 triệu VNĐ thì vợ con anh không phải trả nợ thay anh”.

Lưu ý: Nếu rơi vào hoàn cảnh khó khăn trước mắt thì anh nên thông qua vợ để cả hai cùng nhau chia sẻ rủi ro nhằm nhanh chóng vượt qua.

Trên đây là tư vấn của Luật LVN Group về thắc mắc của bạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự – Công ty luật LVN Group