1. Khái niệm bị cáo
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Từ khi có quyết định của Toà án đưa bị can ra xét xử thì người đó được gọi là bị cáo. Nếu chưa có quyết định của Toà án đưa ra xét xử thì bị can vẫn chưa được gọi là bị cáo, mặc dù hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng quyết định truy tố người đó đã được gửi cho Toà án.
Bị cáo là người tham gia tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hình sự.
2. Quy định về sự có mặt của bị cáo tại hiên tòa
Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa được quy định tại điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
“1. Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong suốt thời gian xét xù vu án; nếu vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì bị áp giải nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa.
Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo”.
– Sự có mặt tại phiên tòa là quyền và nghĩa vụ của bị cáo vì họ là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tòa. Sự có mặt của bị cáo tại phiên toà là bắt buộc, nhằm thực hiện nguyên tăc xét xử trực tiếp; bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp luật.
Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập cùa Tòa án. Bị cáo đang bị tạm giam phải được cơ quan công an, lực lượng cảnh vệ trong quân đọi dẫn giải đến phiên tòa theo giấy triệu tạp và kế hoạch xét xử của Tòa án.
Bị cáo tại ngoại phải có mặt tại phiên tòa theo giấỳ triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải. Đối với bị cáo bị áp giai thì thơi gian giải lao, nghỉ nghị án… phảĩ chịu sự giám sát của cảnh sát hoặc cảnh vệ; nếu phiên tòa kéo dài trông nhiều ngày thì Hội đồng xét xử có thể quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử.
3. Hậu quả của việc vắng mặt bị cáo tại phiên tòa
– Trường hợp bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng như do không nhận được giấy triệu tập cua Tòa án, vì ốm đau, vì thiên tai không đến được phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa.
– Tòa án quyết định tạm đình chi vụ án trong các trường hợp:
Bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác như ung thư, lao phổi, đột quỵ… thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chi vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh. Việc khẳng định bị cáo bị bệnh tâm thần hay bệnh hiểm nghèo khác cũng như kết luận bị cáo đã khỏi bệnh hay chưa do Hội đồng giám định pháp y kết luận bằng văn bản.
Bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
– Điều luật quy định Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả. Trong thời hạn 1 tháng kể từ khi có lệnh truy nã mà không bắt được bị cáo thì Tòa án phục hồi tố tụng và tổ chức phiên tòa xét xử vắng mặt bị cáo;
Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa. Không phải mọi trường hợp bị cáo đang ở nước ngoài Tòa án đều có thể xét xử vắng mặt. Để Tòa án có thề xét xử vắng mặt bị cáo, ngoài điều kiện bị cáo đang ờ nước ngoài, phải thêm một điều kiện đủ nữa là Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến phiên tòa được. Thông thường Tòa án không thể triệu tập bị cáo đến phiên tòa trong những trường hợp bị cáo đang ở một quốc gia mà Việt Nam chưa có hiệp định tương trợ tư pháp, bị cáo ở nước ngoài nhằm trốn tránh việc trừng phạt theo pháp luật Việt Nam, không rõ địa chi bị cáo ở nước ngoài…;
Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trờ ngại cho việc xét xừ và họ đã được giao giây triệu tập hợp lệ. Thông thường Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp phạm tội đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, chế tài quy định đôi với tội phạm đó ít nghiêm khắc, bị cáo tại ngoại và nhận tội. Đây là những trường hợp bị cáo yêu cầu xét xử vắng mặt bị cáo.
4. Các trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo
Tòa án chi có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp:
a) Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả;
b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c) Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận;
d) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử”.
5. Xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định của bộ luật Tố tụng hình sự
Điều 290 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định : Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp: a) Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả; b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; c) Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận; d) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử.
Nghiên cứu nội dung điều luật, thấy rằng 04 trường hợp được xét xử vắng mặt bị cáo đều có điểm chung, đó là việc Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử và giao được Quyết định cho bị cáo; nhưng bị cáo không đến phiên tòa theo ngày giờ địa điểm xét xử theo quyết định xét xử; thực tiễn xét xử, xử lý như sau: hoãn phiên tòa lần thứ nhất, tiếp tục triệu tập hợp lệ lần thứ hai cùng kế hoạch áp giải bị cáo đến phiên tòa; nếu bị cáo không đến phiên tòa, thì giải quyết như sau:
Trường hợp thứ nhất: Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả: Khi có đủ tài liệu xác định Bị cáo trốn (áp giải không có kết quả), Hội đồng xét xử phải quyết định tạm đình chỉ xét xử và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
Cần phân biệt với trường hợp sau khi thụ lý vụ án, chưa ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán quyết định triệu tập bị can đến làm việc để xét áp dụng biện pháp ngăn chặn (Cấm đi khỏi nơi cư trú) hoặc đến nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng bị can, bị cáo vắng mặt không có lý do, xác minh tại địa phương, chính quyền và thân nhân không biết bị can ở đâu; trường hợp này, nếu xác định được bị can đã bỏ trốn thì Tòa án phải yêu cầu Cơ quan điều tra Công an cùng cấp truy nã bị can; hết thời hạn chuẩn bị xét xử, không bắt được bị can, Thẩm phán ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án (không được xét xử vắng mặt vì bị cáo chưa được biết mình bị xét xử về tội gì- quyền bào chữa).
Việc truy nã bị cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 231 BLTTHS và nội dung quy định tại Điều 9 Thông tư liên tịch số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 09/10/2012 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao, TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS 2003 và Luật thi hành án hình sự về truy nã, đó là việc Tòa án phải ra văn bản yêu cầu truy nã bị cáo; Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị cáo, ngay khi nhận được văn bản của Tòa án. Nếu hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có công văn yêu cầu mà việc truy nã vẫn chưa có kết quả thì Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã phải thông báo cho Tòa án biết để Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt người bị truy nã. Luật quy định “ra ngay” , không quy định ngày giờ cụ thể Tòa án phải ra văn bản yêu cầu, Cơ quan điều tra phải ra Quyết định truy nã, phải thông báo kết quả truy nã, nhưng theo nguyên tắc xét xử kịp thời (Điều 25 BLTTHS), điều tra nhanh chóng (Điều 19 BLTTHS), thì Tòa án phải thực hiện ngay việc yêu cầu truy nã- đồng thời với Quyết định tạm đình chỉ xét xử, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị cáo ngay khi nhận được yêu cầu của Tòa án, thông báo ngay sau 01 tháng tính từ khi ra Quyết định truy nã mà không bắt được bị can, để Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo. Theo cách tiếp cận này, từ khi Quyết định tạm đình chỉ xét xử đến khi Quyết định xét xử vắng mặt bị cáo không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 277 BLTTHS.
Trường hợp thứ hai: Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa: Luật định không thể triệu tập đến phiên tòa khác việc không thể triệu tập đến nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; do vậy khi có đủ tài liệu hợp pháp như: thông tin xuất nhập cảnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xác định sau khi bị cáo nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử, đã không còn ở Việt Nam; nếu không có tài liệu hợp pháp thì coi đây là trường hợp bỏ trốn và áp dụng điểm a khoản 2 Điều 290 BLTTHS để xét xử; Khi áp dụng quy định này phải thỏa mãn 2 điều kiện: Bị cáo không ở Việt Nam và Không thể triệu tập được bị cáo đến phiên tòa do không rõ địa chỉ- nước ngoài bị cáo sinh sống hoặc rõ địa chỉ nước ngoài nhưng không triệu tập được do chưa có hiệp định tương trợ tư pháp;
Trường hợp thứ ba: Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận; Trường hợp này cần có đơn đề nghị của bị cáo, có xác nhận hợp pháp, đồng thời sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử, nếu vắng mặt của bị cáo gây trở ngại cho việc xét xử thì phải áp giải bị cáo đến phiên tòa, hoặc ra Lệnh bắt tạm giam bị cáo để đảm bảo việc xét xử theo Luật định;
Trường hợp thứ tư : Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử. BLTTHS không giải thích từ ngữ lý do bất khả kháng. Qua tìm hiểu và nghiên cứu Điều 156 Bộ luật dân sự thấy rằng: lý do bất khả kháng, là lý do khách quan, ngoài ý muốn của bị cáo và bị cáo không dự đoán trước được, không thể tránh và khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, như bị cáo không đến phiên tòa do tại thời điểm đó, xảy ra lũ lụt, cháy nổ, đột quỵ…Như vậy xác định lý do bất khả kháng rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa để áp dụng quy định xét xử vắng mặt, tránh việc lạm dụng để đẩy nhanh tiến độ giải quyết án tạo điều kiện cho bị cáo trốn tránh sự phán xét công khai tại Tòa án;
Trân trọng./
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group