Trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng phạm theo Bộ luật hình sự 2015

Trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015? Trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm?

Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm hậu quả pháp bất lợi đối với những người (thể nhân pháp nhân) trong đồng phạm, do hành vi phạm tội của họ y ra, tương ứng với vai trò, tính chất, mức độ tham gia khi thực hiện tội phạm nhằm phân hóa trách nhiệm hình sự thể hoá hình phạt giữa những người trong đồng phạm trên sở nguyên tắc công bằng của luật hình sự.

Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm hậu quả pháp hình sự bất lợi. áp dụng đối với đồng phạm nên đòi hỏi trách nhiệm hình sự tính chất phân hóa nghiêm khắc hơn, thể hiện bản án kết tội của Tòa án hiệu lực pháp luật một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định

Để xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, chúng ta cần dựa trên sở pháp sở thực tiễn phát sinh trách nhiệm hình sự đó. Về cơ sở pháp của trách nhiệm hình sự trong đồng phạm các quy định của PLHS về đồng phạm và cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm. cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm tổng hợp các quy định của Bộ luật hình sự xác định một người đồng phạm tội phạm, bao gồm các dấu hiệu của người thực hiện hành vi phạm tội được tả trong cấu thành tội phạm cơ bản tương ứng với từng tội danh, áp dụng cho chỉ một chủ thể đơn lẻ, phải thêm các cấu thành tội phạm khác quy định về các dạng của hành vi đồng phạm (hành vi tổ chức, xúi giục giúp sức thực hiện tội phạm).

Sự tổng hợp những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm bản với những dấu hiệu của chế định đồng phạm chính những cấu thành tội phạm bổ sung cho cấu thành tội phạm bản cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm...” sở pháp này được quy định tại các điều luật cả phần những quy định chung của Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Bộ luật hình sự

Việc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm vừa phải tuân thủ những nguyên tắc chung được áp dụng cho tất cả những trường hợp phạm tội, vừa phải tuân thủ những nguyên tắc riêng cho trường hợp đồng phạm. Trong các công trình nghiên cứu phục vụ công tác giảng dạy, các nhà khoa học mặc cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thừa nhận các nguyên tắc bản sau: (1) Nguyên tắc tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện; (2) Nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm (3) Nguyên tắc thể hoá trách nhiệm hình sự của người đồng phạm

TS Trần Quang Tiệp cũng cùng quan điểm khi đưa ra các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đặc thù của đồng phạm (đối với trường hợp đồng phạm hoàn thành), đó : Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm; nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm nguyên tắc thể hoá trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm

Tác giả Phí Thành Chung trong công trình nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam cũng quan điểm tương tự khi đưa ra các khía cạnh của nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm : Những người trong đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm do họ gây ra, chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội họ tham gia mỗi người phải chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm

Trong công trình nghiên cứu của mình, TSKH.GS Cảm cũng đặt ra 03 vấn đề quan trọng về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm phải tuân thủ khi áp dụng pháp luật. Trong đó, hai nguyên tắc sau nội dung tương tự với các nhà nghiên cứu khoa học hình sự khác: nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự

Thứ nhất, về nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự tất cả những người đồng phạm đều phải chịu trách nhiệm hình sự liên đới đối với tội phạm chung do cố ý họ đã cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện . Nguyên tắc này chính sự kết hợp của hai nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm. Tội phạm trong đồng phạm hành vi nguy hiểm cho hội bị luật hình sự cấm do những người đồng phạm cố ý cùng thực hiện tội phạm nhằm đạt được kết quả phạm tội chung. Tội phạm một thể thống nhất, không thể chia cắt thành nhiều phần để mỗi người đồng phạm chịu trách nhiệm về từng phần..

Do vậy, xác định rằng tất cả những người đồng phạm đều bị điều tra, truy tố, xét xử về cùng một tội danh, cùng điều luật, cùng chịu chế tài mà điều luật quy định cũng như cùng theo nguyên tắc xử chung đối với tội danh đó. Áp dụng chung cho tất cả những người đồng phạm những quy định liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm họ đã thực hiện bao gồm các nguyên tắc chung về việc truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quyết định hình phạt.

Bên cạnh đó, việc xác định trách nhiệm hình sự cho mỗi người đồng phạm phải dựa trên hành vi cụ thể của mỗi người do trách nhiệm hình sự trách nhiệm nhân, trên sở hành vi lỗi của nhân, mỗi người độc lập với nhau. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hay loại trừ trách nhiệm hình sự của riêng người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng cho người đó. Việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự hay không ảnh hưởng đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm khác

Thứ hai, đối với nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự: mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập đối với hành vi phạm tội do cố ý mình đã cố ý tham gia vào việc thực hiện bằng hành động hoặc không hành động) căn cứ vào tính chất mức độ mỗi người đã cố ý cùng tham gia với những người đồng phạm khác để đạt được kết quả phạm tội chung.

Nói hơn, nguyên tắc này thể hiện sự phân hoá thể hoá trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà cũng đã khẳng định: Trách nhiệm hình sự được xác định trên sở: Tính chất của đồng phạm; Tính chất tham gia của người đồng phạm (vai trò); Mức độ tham gia của người đồng phạm (phần đóng góp);” 

Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm khác biệt với trách nhiệm hình sự trong trường hợp một người thực hiện thể hiện sự phân hoá trách nhiệm hình sự tính chất, mức độ trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Căn cứ vào việc xem xét tính chất hành vi khác nhau, mức độ tham gia, đóng góp của những người đồng phạm trong việc thực hiện tội phạm chung cũng như sự khác nhau tính chất nguy hiểm cho hội, đặc điểm nhân thân của từng người đồng phạm chúng ta cân nhắc, xác định đúng đắn trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.

Nguyên tắc này đã thể hiện thành đường lối, chính sách bản của PLHS, khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự quy định nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối ... khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội ...xác định chính sách hình phạt của Nhà nước Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng

Vấn đề thứ ba liên quan đến xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm TSKH.GS Cảm đề cập phân tích trong nghiên cứu của mình đó việc giải quyết trách nhiệm hình sự khi 02 người trở lên cùng cố ý tham gia vào việc thực hiện tội phạm do cố ý trong đó sự hiện diện của 02 loại người theo pháp luật quy định không phải chịu trách nhiệm hình sự người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc người không năng lực trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 12 Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành). Trong đó, cần phải lưu ý các chế tài pháp liên quan đến người chưa thành niên, người không năng lực trách nhiệm hình sự mà việc xác định trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng phạm không ngoại lệ

Liên quan đến trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm, ba vấn đề quan trọng cần làm , đó : Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm; Xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm

Về chủ thể đặc biệt trong đồng phạm: Đối với những tội phạm đòi hỏi chủ thể đặc biệt thì chỉ cần người thực hành những đặc điểm đặc biệt đó. Còn với những người đồng phạm khác không đòi hỏi phải những đặc điểm của chủ thể đặc biệt.Như vậy những cấu thành tội phạm chủ thể đặc biệt, dấu hiệu này chỉ áp dụng cho người thực hành. Những người đồng phạm khác không cần thiết phải những đặc điểm của chủ thể đặc biệt. Quy định như vậy của luật hình sự hợp , vừa đủ đối với trường hợp đồng phạm

Về việc xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm, đây cũng một mảng kiến thức cần phải nắm vững, phục vụ việc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Trong đó, quan điểm được thừa nhận chung Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào, họ phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó..

Trong một vụ đồng phạm, do những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của những người đồng phạm họ không thực hiện được tội phạm đến cùng (tội phạm hoàn thành), thì căn cứ theo người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào, những người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự đến giai đoạn đó

Bên cạnh đó, liên quan đến giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm, chúng ta cần phải nắm được các trường hợp sau: Trường hợp người bị xúi giục không nghe theo lời xúi giục, sự xúi giục không có kết quả thì chỉ riêng người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội họ đã xúi giục. Trường hợp người giúp sức giúp người thực hành thực hiện tội phạm nhưng người thực hành không thực hiện tội phạm hoặc không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội họ định giúp sức

Người giúp sức, người xúi giục trong trường hợp trên thể phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm giai đoạn chuẩn bị phạm tội nếu điều luật về tội phạm ấy quy định chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 14 Bộ luật hình sự hiện hành.

Theo đó, khoản 1 Điều 14 Bộ luật hình sự tả về 03 nhóm hành vi chuẩn bị phạm tội: tìm kiếm sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội; tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm thành lập, tham gia nhóm tội phạm,...Khoản 2 Điều 14 Bộ luật hình sự quy định các tội phải chịu trách nhiệm hình sự giai đoạn chuẩn bị phạm tội: 2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 304, 303 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.” 

Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm: 

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm nữa mặc không gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Không được coi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nếu việc người phạm tội không thực hiện tội phạm đến cùng do điều kiện khách quan.

Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thể do nhiều nguyên nhân như: hối hận, lo sợ, thức tỉnh, sợ bị trừng phạt, không muốn thực hiện tội phạm đối với người quen biết vv... chỉ cần người phạm tội chủ quan tự nguyện và dứt khoát không thực hiện tội phạm nữa thì được coi là đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nhưng hành vi thực tế đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác thì người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi đã thực hiện.

Trong vụ đồng phạm, khi sự kiện tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một người hay một số người thì việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người đồng phạm đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Tại lần pháp điển hoá đầu tiên, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Với những yêu cầu, vướng mắc phát sinh từ thực tế áp dụng pháp luật, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã ban hành các Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường hợp đồng phạm như sau

Đối với người thực hành, nếu trong vụ đồng phạm chỉ một người thực hành thì vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nghĩa tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, mặc không ngăn cản, thì tội phạm không thể hoàn thành, hậu quả phạm tội mong muốn không xảy ra. Khi người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì chỉ riêng họ được miễn trách nhiệm hình sự. Những người đồng phạm khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm họ đã tham gia giai đoạn chuẩn bị hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt tùy thuộc vào thời điểm người thực hành đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức đặc điểm khác với việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm. Trong các vụ án đồng phạm, nếu người xúi giục hoặc người tổ chức hay người giúp sức tuy tự ý nửa chừng từ bỏ ý định phạm tội, nhưng không áp dụng những biện pháp cần thiết để ngăn chặn người thực hành thực hiện tội phạm, vẫn để mặc cho đồng bọn 

thực hiện tội phạm, thì tội phạm vẫn thể được thực hiện, hậu quả của tội phạm vẫn có thể xảy ra. Do đó, để được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 16 Bộ luật hình sự về tội định phạm, người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức phải những hành động tích cực nhằm ngăn chặn việc thực hiện tội phạm như thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa để người thực hành không thực hiện tội phạm hoặc biện pháp ngăn chặn, báo cho quan Nhà nước thẩm quyền, báo cho người sẽ nạn nhân biết về tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện, ...

Người giúp sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện tinh thần, vật chất cho việc thực hiện tội phạm (như không cung cấp phương tiện, công cụ phạm tội; không chỉ điểm, dẫn đường cho kẻ thực hành...). Nếu sự giúp sức của người giúp sức đang được những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội phạm, thì người giúp sức cũng phải những hành động tích cực như đã nêu trên đối với người xúi giục, người tổ chức để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Nhưng nếu những việc họ đã làm nêu trên không ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm vẫn xảy ra, thì họ thể vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Họ chỉ thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu thoả mãn một trong các căn cứ tại Điều 29 Bộ luật hình sự

Trường hợp vụ án nhiều người thực hành, có người tự ý nửa chừng từ bỏ ý định phạm tội, có người không từ bỏ ý định phạm tội. Trong trường hợp này, nếu người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đã không làm hoặc những việc họ đã làm trước khi từ bỏ ý định phạm tội không giúp cho những người đồng phạm khác trong việc tiếp tục thực hiện tội phạm thì thể được miễn trách nhiệm hình sự. Còn nếu những việc họ đã làm được những người đồng phạm khác sử dụng để thực hiện tội phạm, thì họ cũng phải những hành động tích cực để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm đó, thì họ mới thể được miễn trách nhiệm hình sự. Nhưng nếu họ không ngăn chặn được những người đồng phạm khác thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm vẫn xảy ra, thì họ thể vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, tương tự như trường hợp về người xúi giục, người tổ chức, người giúp sức đã được nêu trên đây

Người thực hành, người giúp sức tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nhưng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm, nếu họ không tố giác tội phạm do người (hoặc những người đồng phạm thực hiện không sự trợ giúp của họ.

Ví dụ 1: Vụ án “Cố ý gây thương tích”: 

Khoảng 10 giờ ngày 15/04/2021, tại quán karaoke Hoàng Giathuộc khu Cây Lụ, Phượng , huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ đã xảy ra sát giữa anh Nguyễn Đức Dương các đối tượng gồm Trần Tiến Ngọc, Nguyễn Danh Xuân Trần Văn Tuấn. Ngọc, Xuân và Tuấn đã dùng tay, chân đấm, đánh nhiều cái vào người anh Dương. Sau đó Trần Tiến Ngọc đã dùng 01 (một) con dao, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, một cạnh sắc, dài 26cm, bản rộng 3,5cm (là hung khí nguy hiểm) chém vào vùng đầu, tai tay của anh Dương dùng 01 (một) ống kim loại dài 1,17m, đường kính 12cm (hung khí nguy hiểm) vụt, đánh vào người anh Dương. Mặc đã được mọi người xung quanh ngăn cản nhưng Ngọc vẫn thực hiện hành vi gây thương tích cho anh Dương nhiều lần rồi mới dừng lại. Hậu quả anh Nguyễn Đức Dương bị thương vùng đầu, tai trái, vùng cẳng tay trái, bàn tay trái. Tỷ lệ phần trăm tổn thương thể của anh Nguyễn Đức Dương do các đối tượng trên gây ra : 14% (mười bốn phần trăm)

Trường hợp này, Trần Tiến Ngọc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Cố ý gây thương tíchquy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với 02 tình tiết định khung: Dùng hung khí nguy hiểm tính chất côn đồ, được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Nguyễn Danh Xuân và Trần Văn Tuấn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tíchquy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với 01 tình tiết định khung: Dùng hung khí nguy hiểm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, không bị áp dụng tình tiết định khung: tính chất côn đồ

Mỗi người đồng phạm mang tính thể, gắn với những tình tiết định khung riêng, không thể buộc người đồng phạm này phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung hình phạt riêng cho người đồng phạm khác, trừ trường hợp họ chung tình tiết định khung

Ví dụ 2: Vụ án Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dânđối với 5 bị cáo là thành viên của tổ chức Liên minh dân tộc Việt Nam

Theo nội dung bản án thẩm ngày 5/10/2018, các bị cáo gồm: Lưu Văn Vịnh (sinh năm 1967, hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương, quận Bình Tân, TP.HCM), Nguyễn Quốc Hoàn (sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú tại tỉnh Lâm Đồng; Quận 10, TP.HCM), Nguyễn Văn Đức Độ (sinh năm 1975, quận Tân Phú, TP.HCM), Phan Trung (sinh năm 1976, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng), Từ Công Nghĩa (sinh năm 1993, dân tộc Chăm, hộ khẩu thường trú tỉnh Ninh Thuận), đã hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trực tiếp thực hiện các hành vi: thành lập tổ chức phản động với tên gọi Liên minh dân tộc Việt Namdo Vịnh làm Chủ tịch; tuyên truyền đả kích, bôi nhọ, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam. Lưu Văn Vịnh với vai trò chủ mưu cầm đầu, đã tổ chức mọi hoạt động thành lập trái phép tổ chức Liên minh dân tộc Việt Nam, đề ra mục tiêu, đường lối hoạt động của tổ chức, lôi kéo người vào tổ chức. Nguyễn Văn Đức Độ với vai trò Phó Chủ tịch tổ chức đã giúp sức tích cực trong việc phát triển tổ chức. Nguyễn Quốc Hoàn Phan Trung vai trò cố vấn, đã tích cực giúp Lưu Văn Vịnh trong các hoạt động thành lập như chuẩn bị tài liệu, soạn thảo cương lĩnh, giới thiệu nhân sự, may cờ cho tổ chứcTừ Công Nghĩa với vai trò được giao làm phụ trách quân sựđã tích cực lôi kéo người vào tổ chức để thành lập nghĩa quân. Các đối tượng đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền lôi kéo người dân; phối hợp, liên hệ với các đối tượng chống đối; tham gia các cuộc biểu tình trái phép; tổ chức hội nghị ngày 30/10/2016 ra mắt tổ chức ngày 6/11/2016

TAND TP.HCM đã tuyên phạt bị cáo Lưu Văn Vịnh mức án 15 năm , Nguyễn Quốc Hoàn 13 năm , Nguyễn Văn Đức Độ 11 năm , Từ Công Nghĩa 10 năm tù và Phan Trung 8 năm tù. Các bị cáo còn bị phạt quản chế 3 năm tại địa phương trú, sau khi chấp hành xong hình phạt . thể thấy, mức phạt Toà án tuyên đối với từng bị cáo thể hiện sự phân hoá ràng trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án. Tính chất, mức độ khác nhau tương ứng kết quả của việc quyết định hình phạt khác nhau nhưng hợp , đúng người, đúng tội

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com