Đe dọa giết người là gì? Tội đe dọa giết người theo Bộ luật hình sự?

Đe dọa giết người là gì? Tội đe dọa giết người theo Bộ luật hình sự? Các yếu tố cấu thành tội đe dọa giết người? Ví dụ về tội đe dọa giết người theo quy định của pháp luật hiện hành?

De dọa là một hành vi chúng ta thường hay nghe đến, tuy nhiên, tùy theo nhiều trường hợp hành vi này có thể chỉ mang tính giải trí, vui đùa và xuất phát từ nhiều mục đích đe dọa. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì hành vi đe dọa nhằm mục đích giết người chính là một tội danh xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Vậy, đe dọa giết người là gì? Tội đe dọa giết người theo Bộ Luật hình sự? Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về vấn đề nêu trên.

Căn cứ pháp luật: Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017;

LVN Group tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.0191

1. Đe dọa giết người là gì?

Giết người là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng và hiện nay thì vẫn thường xuyên xảy ra tại nước ta với tỷ lệ khá cao. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi giết người, nhưng dù bất kỳ lý do gì thì hành vi giết người đều sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Và đe dọa giết người cũng được xem là một hành vi vi phạm pháp luật.

Theo đó, đe dọa giết người là hành vi người phạm tội sử dụng những hành vi hoặc lời nói, hành động để thể hiện cho đối phương biết là sẽ thực hiện hành vi giết người đối với người đó. Hành vi này khiến cho đối phương tin rằng mình sẽ bị giết vào thời gian đó, nếu không thực hiện theo mong muốn của người đe dọa. Đe dọa giết người là một trong những tội danh xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và danh dự của người khác được pháp luật bảo vệ.

Đe dọa giết người được dịch sang tiếng anh như sau: Threatening to kill

Khái niệm về đe dọa giết người được dịch sang tiếng anh như sau:

Threatening to kill is an act where the offender uses acts or words or actions to show the opponent that he will commit murder against that person. This behavior makes the opponent believe that he will be killed at that time, if he does not comply with the wishes of the threater. Threatening to kill is one of the crimes of infringing upon the life, health and honor of others that are protected by law.

2. Tội đe dọa giết người theo Bộ luật hình sự:

Tội đe dọa giết người theo Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 được quy định cụ thể như sau:

– Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Đây là mức hình phạt nhẹ nhất khi có dấu hiệu cấu thành tội đe dọa giết người.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

 + Đối với 02 người trở lên. Người phạm tội thực hiện hành vi đe dọa với 02 người trở lên bằng nhiều hình thức khác nhau.

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người phạm tội là những người đảm nhiệm chức vụ, hoặc làm việc trong cơ quan nhà nước và được giao quyền hạn thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để gây sức ép hoặc đe dọa sẽ xử tội chết hoặc sẵn sàng dùng súng bắn chết người bị đe dọa.

+ Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. Những người này là những cán bộ, công chức, quân nhân, công an được giao nhiệm vụ điều tra, xử lý hành vi  phạm tội của người thực hiện hành vi phạm tội.

+ Đối với người dưới 16 tuổi. Đây là những chủ thể chưa thể bảo vệ chính bản thân mình vì vậy nhà nước luôn quy định để bảo vệ và đồng thời tạo được sự răn đe cho các đối tượng có ý định lợi dụng độ tuổi còn nhỏ của những chủ thể này mà đe dọa làm việc theo yêu cầu của người đe dọa.

+ Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác. Ví dụ như người đe dọa người khác vì người này biết được người đe dọa có sử dụng chất ma túy, trộm cướp tài sản của người khác hoặc một bí mật nào đó nhưng khi bị phát hiện có thể bị kết án tử hình hoặc chung thân.

3. Các yếu tố cấu thành tội đe dọa giết người:

Bất kỳ một tội danh nào được quy định tại Bộ luật hình sự đều sẽ dựa vào những yếu tố cấu thành để xác định đúng tội danh và khung hình phạt phù hợp với mức độ gây nguy hiểm cho xã hội.

Thứ nhất, mặt chủ quan của tội phạm

Hành vi đe dọa giết người có thể xuất phát từ hành động cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Việc thực hiện hành vi có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhiều hành vi được thực hiện xuất phát từ ý chỉ của người thực hiện hành vi hoặc được người khác thuê.

Thứ hai, mặt khách quan

Mặt khách quan của tội phạm được xác định là những hành vi đe dọa đến tính mạng của cá nhân. Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện qua hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả.

Hành vi này có thể thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như lời nói, hành động, cách nhìn, cử chỉ nhưng với mục đích giết người mà là đe dọa sẽ giết người ví dụ như hành động cầm dao kè cổ, lấy súng đã lên đạn, nhắn tin hoặc gọi điện, hoặc nói trực tiếp với người này…Hành vi đe dọa giết người chính là hành vi khiến cho đối phương thực sự tin tưởng rằng sẽ bị giết, không đơn thuần chỉ là câu nói thông thường mang tính giải trí, bông đùa. Đây chính là dấu hiệu đặc trưng của tội danh này.

Hậu quả của hành vi này chính là tạo ra niềm tin là người bị đe dọa sẽ chết, nhiều trường hợp hậu quả xảy ra ngoài kiểm soát của người đe dọa. Ví dụ như người bị đe dọa cảm thấy sợ hãi mà uống thuốc tự tử, hoặc có hành vi ngược lại là giết người đang đe dọa chính mình…

Chính vì vậy, mối quan hệ của hành vi đe dọa giết người là nhằm khiến cho người khác nghỉ mình có khả năng bị giết, cố ý để cho người bị đe dọa thấy hành vi đe dọa hoặc người khác nhìn thấy mà người phạm tội biết rằng người này sẽ nói lại cho người bị đe dọa biết và đồng thời có thể biết được hành vi giết người thực sự xảy ra khi nào và cụ thể là hành vì gì.

Thứ ba, mặt khách thể

Mặt khách quan của tội phạm là những mối quan hệ được pháp luật bảo vệ nhưng bị các đối tượng xâm phạm.

Hành vi đe dọa xâm phạm đến những quan hệ được pháp luật bảo vệ cụ thể trong hành vi này chính là tính mạng, sức khỏe của công dân. Nhiều người vì quá lo sợ mà có những hành vi dại dột như tự tử, nhảy lầu, treo cổ…một số khác thì mất ăn, mất ngủ, không thể ăn uống bình thường, không dám đi làm hoặc ra ngoài, chỉ dám ở trong nhà và trốn chui nhủi. Từ đó ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, sức khỏe, tính mạng và kinh tế.

Thứ tư, mặt chủ thể

Chủ thể thực hiện hành vi là những đối tượng có đầy đủ nhận thức, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và làm chủ được hành vi của mình gây ra. Theo quy định của pháp luật thì người thực hiện hành vi chính là người 16 tuổi trở lên, nếu dưới 16 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

4. Ví dụ về tội đe dọa giết người theo quy định của pháp luật hiện hành:

Xin nêu vì dụ như sau:

Khoảng 18 ngày 22 tháng 8 năm 2020, thấy B 21 tuổi cùng con trai là A đang ăn tối tại quán của C thì D mẹ ruột của C đến gọi C về và nói với lời lẽ ngăn cấm C đi chơi cùng B, nên để C tập trung vào học tập. Điều này đã khiến B cảm thấy tức giận vì cảm thấy bị coi thường trước mặt mọi người. Sau đó, B đã đi nhậu cùng bạn bè. Tuy nhiên, tầm 21 giờ cùng ngày, B vì bị D xúc phạm, xem thường nên không có C đi chơi cùng mình vì cho rằng B hư hỏng, không có nghề nghiệp ổn định đã cầm một con dao dài tầm 80 cm đến nhà C. Lúc này thấy D cùng chồng ra ngoài thì B đã dùng hung khí chỉ thẳng vào mặt D và nói những lời lẽ đe dọa D như sau: “ Tại sao bà dám xem thường tôi, làm tôi mất mặt trước bao nhiêu người. Hôm nay tôi sẽ chém chết bà vì làm nhục tôi ở quán”. Thấy B như vậy, vợ chồng bà D không mở cửa và vội chạy vào nhà. Sau đó, B đứng khoảng một tiếng thì bỏ về nhà.

Tuy nhiên không dừng lại ở đó, ngày hôm sau B tiếp tục đến nhà bà D và uy hiếp với những lời lẽ như vậy. Và lấy gạch ném vào nhà, thách thức bà D ra ngoài “Mày bước ra đây, ông chém chết mày ngay”. Sau khi có nhiều can ngăn, khuyên bảo thì lúc này B đã về nhưng vẫn nhắc hôm sau sẽ đến tiếp. Sau nhiều ngày bị lặp lại như vậy, Bà D vì quá sợ hãi mà phải trốn nhà họ hàng để không phải gặp B.

Như vậy, trong vụ án này có thể thấy rõ bị cáo B đã đe dọa D làm cho D sợ hãi là có căn cứ cho rằng hành vi đe dọa D rất hung hãn và nhiều khả năng B sẽ thực hiện hành vi. Bên cạnh đó, đây không phải B nhắc đến một hay hai lần mà lặp lại rất nhiều lần khiến cho D và  mọi người xung quanh ai cũng tin rằng B sẽ thực hiện hành vi. Chủ thể thực hiện hành vi là người đã đủ 18 tuổi trở lên và không mắc các bệnh về tinh thần vì và thực hiện hành vi trong trạng thái tỉnh tảo, minh mẫn. Chính vì vậy, nếu D tố cáo hành vi này với công an thì B có thể đang có dấu hiệu của Tội đe dọa giết người. Tuy nhiên, nếu sau khi có hành vi đe dọa và thực hiện hành vi giết D thì tội của B lúc này sẽ chuyển thành tội giết người.

Hiện nay, tình trạng đe dọa giết người trong đời sống hằng ngày đang diễn ra với mức độ khá nghiêm trọng và đáng kể trong nhóm các tội cố ý xâm phạm tính mạng con người. Sở dĩ mức độ các vụ phạm tội đe dọa giết người xảy ra chiếm tỷ lệ đáng kể như vậy là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó nguyên nhân chính là do mức phạt mà Bộ luật hình sự quy định hiện nay chưa đu sức răn đe đối với xã hội.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật LVN Group về đe dọa giết người và tội đe dọa giết người theo Bộ luật hình sự. Trường hợp có thắc mắc xin vui lòng liên hệ để được giải đáp cụ thể.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com