Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Hình thức của giao dịch dân sự? Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức?
Các giao dịch dân sự có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, giao dịch dân sự là giao dịch rất phổ biến và diễn ra hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Cũng chính bởi vì vậy mà Bộ luật Dân sự 2015 đã có cả một Chương VIII để quy định cụ thể về vấn đề này. Pháp luật cũng đã nêu rõ các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu để nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự trong đời sống xã hội. Vậy, giao dịch dân sự vô hiệu là gì và có nội dung cụ thể ra sao? Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam.
LVN Group tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.0191
1. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?
Hiểu một cách đơn giản thì các giao dịch dân sự không đáp ứng được điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định thì có thể bị vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp luật và các giao dịch này không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể trong giao dịch đó.
Theo Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.”
Cụ thể, tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có nội dung như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
Theo quy định của pháp luật, giao dịch dân sự chỉ cần không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực do luật định đã có thể bị vô hiệu. Chính bởi vì vậy, một giao dịch dân sự có thể vô hiệu do vi phạm một điều kiện hoặc bị vô hiệu do vi phạm đồng thời nhiều điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định.
Cũng cần lưu ý rằng không phải mọi trường hợp giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực thì đều bị vô hiệu. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp cụ thể, các giao dịch dân sự vi phạm điều kiện có hiệu lực chỉ bị vô hiệu khi có tuyên bố vô hiệu của Tòa án dựa trên yêu cầu của chủ thể trong giao dịch hoặc của các chủ thể là người đại diện của người xác lập giao dịch dân sự đó.
Theo nguyên tắc chung thì một hợp đồng vô hiệu thì mọi quy định và nội dung trong hợp đồng sẽ bị huỷ bỏ ngay các các giao dịch phát sinh trong quá khứ. Một hợp đồng vô hiệu là một hợp đồng không tồn tại theo quy định pháp luật, không có giá trị pháp lý, không có giá trị bắt buộc thực hiện, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên tham gia hợp đồng từ thời điểm xác lập. Hợp đồng vô hiệu là một hợp đồng mà pháp luật nước ta không thừa nhận, không có giá trị ràng buộc đối với các bên giao kết hợp đồng đó và sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý mà các bên đã cam kết trong hợp đồng.
2. Hình thức của giao dịch dân sự:
Theo Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hình thức của giao dịch dân sự có nội dung như sau:
“Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”
Theo quy định của pháp luật thì các giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lợi nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Đối với các giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử sẽ được coi là giao dịch bằng vãn bản.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 thì trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy đinh đó.
Đối với những giao dịch buộc phải đăng ký tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các bên chủ thể phải thực hiện thủ tục này nếu không giao dịch dân sự đó sẽ vô hiệu. Giao dịch thể hiện dưới hình thức này thường là các giao dịch chuyển giao công nghệ có đối tượng là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích họp bán dẫn, giống cây trồng.
Hình thức hợp đồng hiểu một cách đơn giản là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung của hợp đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung của hợp đồng đó và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng không chỉ là hình thức thể hiện nội dung của hợp đồng mà còn là những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi giao kết một số loại hợp đồng như phải có công chứng, chứng thực thì hợp đồng đó mới có hiệu lực.
3. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức:
Theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ các trường hợp sau đây:
– Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
– Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 được áp dụng với hợp đồng, chúng ta nhận thấy:
– Hình thức của hợp đồng là phương tiện thể hiện nội dung của hợp đồng. Có hai trường hợp hợp đồng được coi là không tuân thủ về hình thức đó là
+ Hình thức văn bản không đúng quy định của pháp luật.
+ Hình thức văn bản vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực.
– Điều kiện để hợp đồng không tuân thủ hình thức được Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực đó là tồn tại trên thực tế việc một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ hợp đồng.
Theo đó, ta nhận thấy đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không thực hiện và đối tượng phải xác định được. Như vậy, theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 việc thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch có thể hiểu là:
+ Một bên hoặc các bên đã chuyển giao ít nhất hai phần ba vật.
+ Đã chuyển giao ít nhất hai phần ba quyền.
+ Một bên hoặc các bên đã trả ít nhất hai phần ba tiền hoặc giấy tờ có giá. (4). Một bên hoặc các bên đã thực hiện hoặc không thực hiện ít nhất hai phần ba công việc đã thỏa thuận.
Trên thực tế, không phải việc một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong hợp đồng thì hợp đồng đó đương nhiên có hiệu lực, mà cũng cần có thêm điều kiện cụ thể là: theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, sau khi xem xét đầy đủ các điều kiện của hợp đồng như đã nêu trên thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng đó.
Những giao dịch mà pháp luật quy định phải thể hiện bằng văn bản, có công chứng hoặc chứng thực hoặc phải được đăng ký giao dịch tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các bên tham gia giao dịch phải tuân theo những hình thức, thủ tục xác lập giao dịch, nếu vi phạm thì giao dịch đó bj coi là vô hiệu.
Trên thực tế, có nhiều giao dịch về nhà ở và quyền sử dụng đất được các bên xác lập, nhưng các bên chủ thể hoặc một bên chủ thể không quan tâm hoặc cố ý không thực hiện hình thức và thủ tục của hợp đồng mua bán, chuyển nhượng. Để đến khi có tranh chấp sẽ gây ra những phức tạp và lãng phí về tài sản và thời gian của các bên tham gia tranh tụng. Với mục đích thừa nhận các giao dịch tuy có vi phạm về hình thức, thủ tục do pháp luật quy định, nhưng trên thực tế các bên đã thực hiện cho nhau các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự đó một phần hoặc toàn bộ, thì không thể tuyên giao dịch này vô hiệu.
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành đã phản ánh yêu cầu tôn trọng sự tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên đương sự. Trên thực tế thì hình thức không phải là ý chí của các bên mà chỉ là phương tiện biểu đạt ý chí của các bên. Chính bởi vì thế nếu phương tiện biểu đạt lại quyết định hủy bỏ kết quả của sự thỏa thuận, tự nguyện cam kết của các bên thì được coi là đã không coi trọng, thậm chí là coi nhẹ ý chí của các bên. Bởi vậy cho dù hình thức của văn bản chưa được các bên tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật nhưng các bên thực sự đã thống nhất ý chí, hoàn toàn tự nguyện và đã thực hiện theo sự thống nhất đó thì không nên áp đặt sự vô hiệu, chấm dứt hiệu lực đối với giao dịch dân sự mà các chủ thể đã xác lập.