Hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự? Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự? Thay đổi biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự?

Việc ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có vai trò rất quan trọng đối với giai đoạn tố tụng hình sự của cơ quan có thẩm quyền. Theo thực tiễn nhiều vụ án, bị can phải bị áp dụng biện pháp ngăn chặn để có thể hạn chế được hành vi tẩu thoát, chạy trốn…và từ đó gây ra những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong Bộ luật tố tụng hình sự thì có rất nhiều biện pháp ngăn chặn được quy định để có thể áp dụng cho từng trường hợp. Vậy, hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự? Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về vấn đề nêu trên.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

– Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017;

1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

Căn cứ theo Điều 109 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định các biện pháp ngăn chặn như sau:

– Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

– Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

2. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được xem là một quy định  được áp dụng trong trường hợp người bị buộc tội và không được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác th

Một, quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

Khi có một trong các căn cứ quy định sau đây người có thẩm quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Bên cạnh đó, quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.

Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một các căn cứ sau:

– Không có sự việc phạm tội được hiểu là những thông tin tố giác tội phạm là hoàn toàn không chính xác, những căn cứ cho thấy dấu hiệu phạm tội của hành vi phạm tội không có và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã điều tả và kết luận không có dấu hiệu phạm tội xảy ra.

– Hành vi không cấu thành tội phạm. Một hành vi phạm tội được cấu thành từ bốn yếu tố đặc trưng cho một tội phạm cụ thể. Bốn dấu hiệu bao gồm: Chủ quan, khách quan, khách thể và chủ thể. Bất kỳ một tội danh nào được tố giác cũng sẽ được cơ quan xem xét dựa trên bốn yếu tố trên. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi của người hoặc pháp nhân nào đó không  có đủ bốn yếu tố trên. Ví dụ: A phạm tội trộm cắp tài sản có giá trị 10 triệu nhưng khi điều tra thì cơ quan có thẩm quyền phát hiện A mới 13 tuổi vì thế không được xem là hành vi cấu thành tội phạm bởi chủ thể của hành vi phạm tội là người không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định.

– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Căn cứ theo điều 12 của Bộ luật hình sự quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự thuộc các trường hợp sau đây:

Người từ đủ 16 tui trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác. Ví dụ như hình thức xử phạt đối với những tội quy định hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người từ đủ18 tuổi trở lên khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như:

+ Tội giết người;

+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn ại cho sức khỏe của người khác

+ Tội hiếp dâm;

+ Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;

+ Tội cưỡng dâm;

+ Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

+ Tội mua bán người;

+ Tội mua bán người dưới 16 tuổi;

+ Tội cướp tài sản;

+ Tội bắt cóc nhằm chiếu đoạt tài sản;

+ Tội cưỡng đoạt tài sản;

+ Tội cướp giật tài sản;

+ Tội trộm cắp tài sản;

+ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản;

+ Tội sản xuất trái phép chất ma túy;

+ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy;

+ Tội vận chuyển trái phép chất ma túy;

+ Tội mua bán trái phép chất ma túy;

+ Tội chiếm đoạt chất ma túy;

+ Tội tổ chức đua xe trái phép;

+ Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt;

+ Tội cản trở giao thông đường sắt;

+ Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;

+ Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;

+ Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác;

+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản;

+ Tội khủng bố;

+ Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia;

+ Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự;

– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật. Theo nguyên tắc không ai bị kết án hai lần cho cùng một tội danh, các cơ quan có thẩm quyền tiền hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã được Tòa án đưa ra bản án và có hiệu lực. Bản án là kết quả cuối cùng của một phiên xét xử.

Quyết định đình chỉ vụ án sẽ do Viện kiểm sát quyết định trong giai đoạn truy tố và do Tòa án nhân dân đưa ra quyết định khi có đủ căn cứ chấm dứt hoạt động tố tụng giải quyết vụ án.

– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được hiểu là thời gian cho phép cơ quan có thẩm quyền tiến hành giai đoạn tố tụng đối với hành vi phạm tội của người thực hiện hành vi. Hiện nay, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định đối với từng loại tội phạm như sau:

+ Đối với nhóm tội ít nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 05 năm;

+ Đối với nhóm tội phạm nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 10 năm;

+ Đối với nhóm tội phạm rất nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm;

+ Đối với nhóm tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 20 năm.

– Tội phạm đã được đại xá. Đại xá là một hình thức tha tội cho hàng loạt người phạm tội, không truy cứu trách nhiệm hình sự, tha tội hoàn toàn, miễn hình phạt cho một số hoặc nhiều người phạm tội nhất định và không phân biệt giới tính, chấp hành hình phạt hay chưa, hoặc đã bị truy tố, xét xử hay chưa, hay phạm tội nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng. Và người có thẩm quyền thực hiện quyền lực này chính là nguyên thủ quốc gia hoặc cơ quan quyền lực nhà nước ban hành. Đây là hình thức thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước đối với nhân dân nhân một dịp lễ, hay một sự kiện đặc biệt quan trọng đối với đời sống chính trị của một quốc gia.

– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác. Việc áp dụng hình phạt chỉ được sử dụng khi cá nhân người phạm tội còn sống, mục đích của việc áp dụng trách nhiệm hình sự là nhằm tạo tính răn đe, hình thành nên ý thức tuân thủ pháp luật và các nguyên tắc đạo đức, sống trong xã hội. Tuy nhiên, một số trường hợp người phạm tội chết đi nhưng việc truy tố trách nhiệm hình sự sẽ được áp dụng đối với những cá nhân có liên quan như đồng phạm…

– Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Theo quy định thì ngoài những tội danh được cơ quan có chức năng phát hiện và tiến hành khởi tố thì những tội danh quy định trên nếu không có yêu cầu của người bị hại thì sẽ không bị khởi tố. Khởi tố là thủ tục pháp lý cần thiết của cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện trước khi tiến hành các giai đoạn tố tụng tiếp theo trong hình sự.

Hai, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.

Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án được hiểu là vụ án đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc chấm dứt các hoạt động tố tụng, biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng. Và đối với những vụ án này nếu có đã có quyết định đình chỉ vụ án thì không được phục hồi điều tra tuy tố, xét xử. Đình chỉ vụ án sẽ diễn ra trong các giai đoạn sau của quá trình tố tụng như đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố, đình chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, đình chỉ vụ án trong giai đoạn giám đốc thẩm và đình chỉ vụ án trong giai đoạn tái thẩm.

Ba, đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;

Đây là thủ tục tố tụng được thực hiện nhằm chấm dứt các hoạt động đối với bị can trong giai đoạn đang điều tra vụ án hoặc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Bốn, bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.

3. Thay đổi biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

Căn cứ theo khoản 2, Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự thay đổi biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Ví dụ: Trường hợp Bị can A đang bị áp dụng hình biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng sau khi xem xét mức độ nguy hiểm thì có thể chuyển sang biện pháp tạm giam để đảm bảo đối tượng không có những hành vi tẩu thoát, chạy trốn gây nguy hiểm cho xã hội.

Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngặn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.

Như vậy, việc thay đổi biện pháp ngăn chặn có thể tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm gây ra cho xã hội mà cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn phù hợp hơn. Trường hợp xét thấy hành vi phạm tội chưa có yếu tố cấu thành tội phạm hoặc vụ án bị đình chỉ…thì cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật LVN Group về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Trường hợp có thắc mắc xin vui lòng liên hệ để được giải đáp cụ thể.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com