Quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng? Quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng?
Hiện nay, việc xác định thời kì hôn nhân có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm phát sinh tài sản chung hay tài sản riêng.Theo quy định của pháp luật thì trong quan hệ hôn nhân gia đình, vợ và chồng sẽ phát sinh những nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng và đồng thời cũng có những nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng. Nghĩa vụ chung tức cả hai vợ chồng đều phải có trách nhiệm như nhau về tài sản, ngược lại về nghĩa vụ riêng thì trách nhiệm thuộc về mỗi bên khi phát sinh nghĩa vụ. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
LVN Group tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.0191
1. Quy định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng:
Tài sản chung của vợ và chồng theo quy định của pháp luật sẽ bao gồm các loại tài sản sau:
– Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
– Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
– Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Như vậy, ta nhận thấy, tài sản chung của vợ chồng được hiểu là tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập từ lao động, các hoạt động sản xuất, kinh doanh buôn bán, các hoa lợi lợi tức sinh ra từ tài sản riêng và các thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân. Ngoài ra, tài sản chung còn là tài sản được thừa kế, tặng cho chung và các tài sản được vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất được hình thành sau khi kết hôn thì là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó là có được do tặng cho thừa kế riêng hoặc hình thành từ tài sản riêng.
Theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
Về quyền, vợ chồng được quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản chung.
Về nghĩa vụ, vợ chồng có một số nghĩa vụ đối với tài sản chung như sau:
– Nghĩa vụ được phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm.
– Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.
– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.
– Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Ngoài ra, hiện nay có một loại tài sản chung đặc biệt là quyền sử dụng đất do nhà nước cấp. Đất do nhà nước cấp cho hộ gia đình thuộc quyền sở hữu của hộ gia đình, nghĩa là bao gồm cả con của các chủ thể được cấp đất. Nếu các chủ thể muốn định đoạt, mua bán mảnh đất đó thì cần sự đồng ý của con mình khi con của các chủ thể trên 18 tuổi.
2. Quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng:
2.1. Quy định về tài sản riêng của vợ hoặc chồng:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và nghị định 126/2014/NĐ-CP của Chính Phủ quy định tài sản riêng của vợ chồng bao gồm các loại tài sản sau:
– Tài sản có trước khi đăng ký kết hôn.
– Tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân.
– Tài sản được chia sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
– Tài sản được hình thành từ tài sản riêng.
– Hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng.
– Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
– Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
– Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
Quyền của vợ chồng đối với tài sản riêng:
Bởi vì các tài sản được nêu trên là tài sản riêng của vợ, chồng nên vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
Vợ hay chồng sẽ tự mình quản lý, bảo vệ tài sản riêng của mình và tự mình chịu trách nhiệm đối với việc đó. Đối với trường hợp vì một lí do nào đó mà vợ, chồng không thể tự mình quản lý, bảo vệ tài sản của mình thì có thể ủy quyền bằng văn bản cho vợ, chồng của mình hoặc người thứ ba thay mình chiếm hữu tài sản trong phạm vi ủy quyền. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó nhưng phải bảo đảm lợi ích cho người có tài sản.
Vợ hay chồng theo quy định của pháp luật sẽ có toàn quyền sử dụng đối với tài sản riêng vào những mục đích mà các chủ thể muốn sử dụng dù là nhu cầu cá nhân hay nhu cầu của cả gia đình. Việc sử dụng tài sản riêng của vơ hay chồng sẽ không cần phải có sự đồng ý của bên kia do vậy người sở hữu tài sản riêng không cần phải phụ thuộc vào ý chí của vợ, chồng của mình.
Ta nhận thấy, hiện nay, việc phân chia rõ ràng tài sản riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quyền định đoạt tài sản bởi vì theo quy định của pháp luật thì vợ, chồng có quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình, có thể sử dụng tài sản riêng để thực hiện các nghĩa vụ riêng, có thể chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản riêng mà không cần phụ thuộc vào bên kia. Cũng cần lưu ý rằng, cho dù là tài sản riêng và có quyền tự định đoạt nhưng quyền định đoạt của vợ, chồng đối với tài sản riêng sẽ bị hạn chế trong một số trường hợp nhằm bảo đảm cuộc sống chung của gia đình như trường hợp hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ và nếu tài sản chung không có hoặc không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.
Việc pháp luật nước ta đưa ra những quy định về tài sản riêng của vợ chồng không làm ảnh hưởng tới tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng không ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình bởi vì trong cuộc sống hôn nhân hòa thuận, hạnh phúc thì họ có thể thỏa thuận để người có tài sản riêng nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng mà không có sự phân biệt tài sản riêng của vợ của chồng. Việc các chủ thể nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung là được pháp luật cho phép và phải thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng và được quy định cụ thể tại điều 46 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2.2. Quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng:
Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng:
Nghĩa vụ riêng về tài sản được hiểu là những nghĩa vụ riêng của vợ hay chồng đối với tài sản mà không liên quan đến người kia và phải sử dụng tài sản riêng của mình để thanh toán những nghĩa vụ về tài sản này theo đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 45 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản được quy định cụ thể như sau:
– Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
– Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
Ta nhận thấy, theo quy định của điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, các trường hợp được loại trừ khỏi nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng bao gồm:
– Nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng mà tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình.
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.
Thực tế thì việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng mà tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình hay việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình đều là những trường hợp sử dụng tài sản riêng của vợ, chồng vào việc duy trì, phát triển cuộc sống chung của gia đình. Do vậy, những nghĩa vụ về tài sản của các trường hợp này là những nghĩa vụ chung của cả vợ và chồng không còn là nghĩa vụ của riêng vợ, chồng nữa.