Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân? Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh?
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân là một bộ phận có vai trò vô cùng quan trọng, cấu thành của bộ máy tư pháp, là đơn vị nghiệp vụ thuộc Công an nhân dân, được phép tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, tính toán các yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ trong quá trình điều tra, xử lý vụ án. Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh là một bộ phận quan trọng của hệ thống cơ quan điều tra trong Công an nhân dân. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ giúp người đọc tìm hiểu về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
LVN Group tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.0191
1. Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân:
Theo Điều 5 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định về cơ quan Điều tra của Công an nhân dân có nội dung như sau:
– Thứ nhất: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh) là cơ quan Điều tra của Công an nhân dân.
– Thứ hai: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện) là cơ quan Điều tra của Công an nhân dân.
Như vậy, ta nhận thấy, pháp luật đã quy định Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh là một trong số những cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.
Đối với các cơ quan Điều tra theo quy định của Điều 3 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì việc tổ chức điều tra hình sự của các cơ quan này cần phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; phải bảo đảm sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệu lực, hiệu quả; phân công, phân cấp rành mạch, chuyên sâu, tránh chồng chéo và được kiểm soát chặt chẽ; điều tra kịp thời, nhanh chóng, chính xác, khách quan, toàn diện, đầy đủ, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; cơ quan điều tra cấp dưới sẽ phải chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của cơ quan điều tra cấp trên; cá nhân chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình; chỉ cơ quan, các chủ thể là người có thẩm quyền quy định trong Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự mới được tiến hành hoạt động điều tra hình sự.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh:
Theo Điều 8 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Điều tra có nội dung cụ thể như sau:
– Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố:
Cơ quan điêu tra theo quy định pháp luật sẽ có nhiệm vụ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố. Sau khi cơ quan điều tra đã tiếp nhận thì sẽ phải nhanh chóng tiến hành phân loại và trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố; kiểm ứa, xác minh có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định việc khởi tố hay không khởi tố vụ án và tiến hành những hoạt động cần thiết khác để giải quyết vụ việc.
– Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao
Cơ quan điều tra còn có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã chuyển giao hồ sơ vụ án.
– Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành điều tra các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố.
Khi cơ quan điều tra tham gia điều tra vụ án hình sự, cơ quan điều tra sẽ được phép tiến hành các hoạt động điều tra, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định của pháp luật để phát hiện, thu thập, kiểm tra chứng cứ như hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, khám xét,… Trong các trường hợp cần thiết, cơ quan điều tra còn được phép áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt người, tạm giữ, tạm giam và biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như ảp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong toả tài khoản. Cơ quan điều tra sẽ được chủ động trong việc ra các quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp cưỡng chế tố tụng. Trong một số trường hợp luật định cơ quan điều tra khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng phải được viện kiểm sát phê chuẩn. Quy định này nhằm đảm bảo cho các biện pháp cưỡng chế tố tụng được áp dụng đúng đắn, có căn cứ, tránh vi phạm pháp luật và xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của công dân nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cơ quan điều tra có nghĩa vụ phải lập hồ sơ vụ án hình sự và tuỳ theo kết quả điều tra để ra những quyết định tố tụng cần thiết. Khi đã kết thúc điều tra cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra, tuỳ kết quả điều tra để đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra. Trong những trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định, cơ quan điều tra ra các quyết định khác như quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra và các quyết định khác theo đúng quy định pháp luật.
– Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Khi cơ quan điều tra tham gia điều tra vụ án hình sự, bên cạnh việc làm rõ những vấn đề về nội dung của vụ án, cơ quan điều tra còn phải xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội; kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm. Việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội không chỉ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng ngừa tội phạm.
Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 ra đời đã đưa ra quy định Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh có thầm quyền điều tra các vụ án tội phạm tại Chương XIII,Chương XXVI và các tội phạm quy định tại các điều 207, 208, 282, 283, 284, 299, 300, 303, 304, 309, 337, 347, 348, 349, 350 của Bộ luật Hình sự năm 2015 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; tiến hành điều tra vụ án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để đảm bảo khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an.
So với quy định về thẩm quyền của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh tại Pháp lệnh thì sẽ rất giới hạn và gây nhiều khó khăn trong việc xác định thẩm quyền điều tra. Bởi theo quy định của Pháp lệnh thì khi một vụ án mới xảy ra thì chưa thể xác định ngay được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Qua đó chưa thể biết chính xác là do tòa án nào xét xử và có thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh hay không. Vì thế, những quy định mới của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự về thẩm quyền điều tra đối với Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh đã bổ sung và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo điều kiện khai thác, phát huy hết khả năng, năng lực của các điều tra viên trong tổ chức, bộ máy Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh.
Ngoài ra, nhằm mục đích để đảm bảo tính khách quan, kịp thời, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong các trường hợp có yêu cầu chính trị đặt ra thì Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự còn quy định Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh sẽ có thẩm quyền được tiến hành điều tra vụ án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để đảm bảo khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đưa ra quy định trên về thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh sẽ phần nào ảnh hưởng đến thời hạn, tiến độ và có thể là chất lượng điều tra vụ án vì phải mất nhiều thời gian chờ quyết định phân công của Bộ trưởng Bộ Công an. Trong quá trình giải quyết vụ án, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo kịp thời về thẩm quyền để Cơ quan điều tra nhanh chóng, chủ động trong việc thu thập, củng cố tài liệu, chứng cứ ban đầu và tập trung lực lượng để đấu tranh, khai thác ngay đối với các đối tượng. Bên cạnh đó, nếu không phân định rõ thẩm quyền điều tra ngay từ đầu thì sẽ rất dễ dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm, bỏ lọt tội phạm, oan sai cho người vô tội, gây ra những xâm phạm đến quyền và lợi ích cho công dân. Đồng thời, cũng cần làm rõ yếu tố “liên quan đến an ninh quốc gia” và “đảm bảo khách quan” để nhằm mục đích giúp các cơ quan điều tra tránh áp dụng một cách tùy tiện dựa trên đánh giá chủ quan của mình để quyết định phân công thẩm quyền điều tra các vụ án trên thực tế. Hiện nay, vẫn chưa có một văn bản chính thức nào làm căn cứ cho việc xác định yếu tố nào là khách quan, yếu tố nào là không khách quan trong quá trình điều tra, mặt khác ranh giới để xác định vụ án nào có liên quan đến An ninh quốc gia hay không cũng là một câu hỏi cần phải đặt ra để giải quyết để đảm bảo quá trình điều tra vụ án diễn ra nhanh chóng, chính xác và đúng thẩm quyền.