Phân chia di sản thừa kế? Quy định hạn chế phân chia di sản thừa kế theo Bộ luật dân sự?
Theo như quy định của Bộ luật dân sự hiện hành thì quyền sở hữu khi đã được xác lập với tài sản của một người là tuyệt đối nên khi một cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản mà chết thì trước khi chết họ có quyền để lại tài sản đó cho người hưởng thừa kế, trong trường hợp họ không để lại di chúc thì tài sản họ sẽ được nhà nước phân chia theo pháp luật. Trong đó thì quyền thừa kế được biết đến như quyền để lại tài sản của cá nhân cho người khác sau khi chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bên cạnh viêc pháp luật quy định về vấn đề phân chia di sản của người đã chết để lại thì cũng có những trường hợp pháp luật đã có quy định về việc hạn chế phân chia di sản thừa kế theo Bộ luật dân sự.
Vậy pháp luật dân sự quy định như thế nào về việc hạn chế phân chia di sản thừa kế theo như quy định của pháp luật hiện hành thf chưa chắc rằng ai cũng hiểu bết về vấn đề này. Chính vì vậy, Trong bài viết dưới đây, Luật LVN Group sẽ giúp quý bạn đọc hiểu về nội dung hạn chế phân chia di sản thừa kế theo trong Bộ luật Dân sự năm, 2015 này như sau:
Tổng đài LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.0191
Cơ sở pháp lý:
Bộ Luật Dân sự 2015
1. Phân chia di sản thừa kế
Trong phần bài viết này, trước khi chúng ta đi sâu vào tìm hiểu về vấn đề phân chia di sản thừa kế là gì? thì cần phải hiểu rõ hơn về việc pháp luật dân sự năm 2015 quy định về khái niệm di sản thừa kế là gì? Vì vậy, theo như quy định của pháp luật hiện hành thì khái niệm về di sản thừa kế được biến đến là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống. Đồng thời tại Điều 612 Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy định “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Do đó, việc phân chia di sản thừa kế được thực hiện theo hai cách đó là, phân chia di sản theo di chúc mà người chết đã lập ra và để lại và phân chia di sản theo pháp luật Dân sự hiện hành, việc phân chia di sản này có nội dung quy định, sau đây:
Thứ nhất, phân chia di sản theo di chúc được khẳng định là việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Mặt khác, đối với những di chúc đã được định đoạt và xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, pháp luật cũng có quy định về việc phân chia di sản thừa kế theo di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.
Thứ hai, phân chia di sản theo pháp luật
Trên cơ sở quy định của pháp luật dân sự hiện về về việc phân chi di sản thừa kế theo pháp luật được xác định trong trường hợp không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản; hoặc có di chúc nhưng có phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì thực hiện phân chia di sản theo pháp luật.
Không những thế mà theo như quy định này thì những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia. Bên cạnh đó, pháp luật cũng có quy định về việc khi thực hiện việc phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra các nguyên tắc phân chia di sản theo pháp luật dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
Một là, việc phân chia di sản theo pháp luật được thực hiện theo quy định của pháp luật, do đó, việc phân chia phải được xác định là phân chia đều nhau, theo thứ tự hàng thừa kế và thực hiện việc phân chia cho những những người nằm trong diện thừa kế.
Hai là, phương thức phân chia gồm có phân chia theo hiện vật và theo giá trị hiện vật, nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Như vậy, có thể thấy rằng dựa vào nguyên tắc này thì tùy vào từng trường hợp mà pháp luật quy định về người thừa kế, điều kiện áp dụng, trường hợp áp dụng và thực hiện phân chia di sản cũng được quy định là khác nhau và việc giải quyết việc phân chia di sản cũng khác nhau và còn phụ thuộc vào các yếu tố khác sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết phân chia di sản thừa kế này.
2. Quy định hạn chế phân chia di sản thừa kế theo Bộ luật dân sự
Trên cơ sở quy định của pháp luật Dân sự hiện hành thì di sản thừa kế hiểu một cách đơn giản là phần tài sản của người chết. Cũng căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định cụ thể việc chia di sản thừa kế theo pháp luật trong khi người chết không để lại di chúc thì di sản của người chết được chia theo hàng thừa kế, điều kiện và theo một trình tự mà pháp luật quy định.
Mặt khác, thì các hàng thừa kế này dựa theo các mối quan hệ của người chết mà họ có thể chia phần di sản để lại trên ý chí của họ: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng,…. không những thế mà pháp luật cũng có quy định về người thừa kế theo pháp luật là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế, con sinh ra hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng phải thành thai trước khi người để lại di sản chết. Chính bởi lẽ đó thì pháp luật hiện hành đã có quy định đến vấn đề về hạn chế phân chia di sản thừa kế rất cụ thể và rõ ràng tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.”
Từ quy định được nêu ở trên thì có thể thấy việc hạn chế phân chia di sản thừa kế phải tuân theo một số quy định như phải tuân theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của những người thừa kế
Đối với trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
Đối với trường hợp có yêu cầu Tòa án xử lý về việc hạn chế phân chia di sản thừa kế khi việc yêu cầu chia di sản thừa kế, mà hậu quả của việc chia đó sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu tòa án xác định phần di sản của mỗi người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia trong một thời hạn nhất định. Chính vì vậy mà việc pháp luật quy định về thời hạn hạn chế phân chia di sản thừa kế không quá ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế là người để lại di sản chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết để nhằm mục đích giải quyết các vấn đề về phân chia một vụ án để tránh tình trạng mãi không thể phân chia được tài sản thừa kế khi các bên không đồng ý bởi vì người lập di chúc vẫn chưa xác định được là còn sống hay đã chết.
Còn đối với trường hợp mà phần tài sản được chia trong di chúc đó mà bị hạn chế phân chia trong một thời gian nhất định thì nếu bên còn sống đã kết hôn với người khác hoặc thời hạn hạn chế phân chia di sản do tòa án xác định đã hết thì người thừa kế khác có quyền yêu cầu tòa án cho chia lại di sản thừa kế trong thời hạn ba năm. Nếu hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm và khi hết thời hạn gia hạn lần hai này thì các bên nhận di sản thừa kế cần thực hiện việc phân chia di sản thừa kế theo như quy định của pháp luật hiện hành.