Thương lượng? Hòa giải? Tòa án? Trọng tài thương mại?
Trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại, các bên không tránh khỏi tranh chấp và phải thực hiện giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật. Vậy quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại được Luật Thương mại quy định như thế nào. Bài viết dưới đây của Luật LVN Group sẽ đi vào tìm hiểu các quy định liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Tổng đài LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.0191
1. Thương lượng
Thương lượng là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Thương lượng xuất hiện trên cơ sở khi các tranh chấp phát sinh, các bên sẽ tự mình bàn bạc và giải quyết vấn đề, đây là phương thức đơn giản nhất, ít tốn kém, thương lượng không bị ràng buộc bởi những thủ tục pháp lý phức tạp, uy tín trong kinh doanh thương mại cũng như bí mật trong kinh doanh được bảo đảm tối đa và mức độ phương hại đến mối quan hệ hợp tác giữa các bên cũng thấp, thậm chí còn tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau sau khi thương lượng thành công. Cụ thể đây là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua việc các bên có tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào, việc thương lượng hoàn toàn dựa trên ý chí của cả hai bên mà không bị ép buộc.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng có những đặc điểm sau đây:
– Thứ nhất, về cơ chế giải quyết: phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng được thực hiện bởi cơ chế giải quyết nội bộ. Cụ thể các bên tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự đưa các các phương án giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay ra phán quyết. Ý chí giải quyết được xuất phát từ cả hai bên, các bên có thiện chí và tự nguyện hợp tác với nhau để đưa ra các phương án phù hợp.
– Thứ hai, quá trình thương lượng giữa các bên tranh chấp cũng không chịu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Thương lượng do không cần đến bên thứ ba đứng ra giải quyết, cũng không nhờ sự can thiệp của pháp luật mà chỉ đơn giản là sự thỏa thuận giữa các bên, các bên đều đồng ý với một phương án giải quyết mà hai bên đã thống nhất đưa ra.
– Thứ ba, việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp. Quá trình thương lượng hai bên tôn trọng ý kiến của đối phương, không dựa vào một ràng buộc, một tiêu chuẩn nào khác.
2. Hoà giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết này được thực hiện với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hoà giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh, bên thứ ba làm trung gian này được hai bên thỏa thuận với nhau tiến hành lựa chọn. Việc hòa giải phải tiến hành dựa trên sự công bằng, hiểu biết, phân định rõ ràng, đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề hợp lý cho các bên.
Đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải cụ thể như sau:
– Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải với đặc điểm lớn nhất là có sự hiện diện của bên thứ ba làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Khác với thương lượng không có sự tham gia của bên thứ ba, hòa giải sẽ có sự tham gia của bên hòa giải.
Sự tham gia của bên thứ ba cần đảm bảo chủ thể đứng ra giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải là cá nhân, pháp nhân cần phải hội đủ những phẩm chất nhất định, như: có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự độc lập, trung lập với các bên tranh chấp để đảm bảo đưa ra được phương án hòa giải có lợi cho cả hai bên, tránh phương hại đến bất kỳ bên nào.
– Thứ hai, cũng như việc thương lượng, quá trình hỏa giải các bên tranh chấp không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải. Quá trình hòa giải diễn ra giữa ba bên, các bên tôn trọng ý kiến của nhau và bên hòa giải sẽ đứng ra phân định, tìm ra phương hướng giải quyết cho hai bên mà không phải theo quy trình ràng buộc nào.
– Thứ ba, kết quả hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải. Điều này có thể hiểu kết quả hòa giải được đưa ra, các bên tranh chấp có thể thống nhất với nhau và tự nguyện thực hiện theo phương án hòa giải mà không bắt buộc phải thực hiện theo kết quả hòa giải,
Kết quả của phiên hoà giải cần được ghi nhận bằng văn bản có đầy đủ chữ ký của người đại diện các bên tranh chấp nhằm thể hiện ý chí của các bên cũng như ý chí của bên hòa giải. Văn bản thỏa thuận này là sự đồng ý của các bên và nó có giá trị ràng buộc các bên và các bên phải tôn trọng, tự nguyện thực hiện như đã cam kết.
3. Toà án
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án được hiểu là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang tính quyền lực nhà nước, cụ thể được thực hiện bởi tòa án nhân dân có thẩm quyền và có những phương thức giải quyết trên nền tảng ý chỉ định đoạt của các bên theo thủ tục linh hoạt và mềm dẻo. Giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước được toà án thực hiện theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Khác với các phương thức thương lượng hoặc hòa giải, các bên có thể không tuân theo kết quả của các phương thức này thì các phán quyết có hiệu lực của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Đặc điểm của giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án cụ thể như sau:
– Thứ nhất, toà án chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu của các bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Điều này được hiểu là khi tranh chấp phát sinh, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại theo một trình tự thủ tục mà không bắt buộc phải đưa ra tòa án, các bên có thể lựa chọn các phương thức giải quyết khác, đồng nghĩa với việc tòa án cũng chỉ giải quyết khi các bên tranh chấp có yêu cầu.
– Thứ hai, phản quyết của tòa án bằng bản án, quyết định nhân danh ý chỉ quyền lực nhà nước và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước.
Bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật bắt buộc các bên phải thực hiện theo nội dung của các phán quyết được đưa ra.
– Thứ ba, giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ thông qua hai cấp xét xử của tòa án: cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Khác với thương lượng và hòa giải, việc giải quyết tranh chấp không cần thực hiện theo một trình tự nào thì việc giải quyết bằng tòa án lại ngược lại, cần phải thực hiện theo trình tự của pháp luật quy định.
– Thứ tư, phán quyết của tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định. sau khi bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra, trong thời hạn luật định các bên tranh chấp có thể thực hiện quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định của toà án đã tuyên lên toà án cao hơn khi không đồng ý với kết quả giải quyết của tòa án để yêu cầu tòa án xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án; Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định của toà án chưa có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
4. Trọng tài thương mại
Khái niệm, đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng TTTM là phương thức giải quyết thông qua hoạt động của Trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng việc đưa ra phán quyết trọng tài buộc các bên tôn trọng và thực hiện.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương mại mang các đặc điểm cơ bản sau:
– Thứ nhất, Trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu của các bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Khi tranh chấp phát sinh, các bên có quyền yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài. Đây là một trong những quy định đảm bảo quyền định đoạt của các bên trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Việc yêu cầu giải quyết tranh chấp của các bên được ghi nhận bằng thỏa thuận trọng tải, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài phải có hiệu lực pháp luật. Các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài bao gồm: (1) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.
Tuy nhiên, các bên có thỏa thuận trọng tải nhưng thuộc một trong các trường hợp sau thì vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa án trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác như: Có quyết định của tòa án hủy phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên; Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài được quy định tại khoản 1 Điều 43, các điểm a, b, d và d khoản 1 Điều 59 Luật TTTM năm 2010; Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng thẩm phán, Toà án nhân dân tối cao. Tại Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đưa ra hai loại tranh chấp có thể được áp dụng theo thủ tục trọng tài, đó là tranh chấp thương mại và tranh chấp đầu tư.
– Thứ hai, chủ thể giải quyết tranh chấp thương mại là các Trọng tài viên thực hiện thông qua Hội đồng trọng tài gồm một Trọng tài viên độc lập hoặc hội đồng gồm nhiều Trọng tài viên. Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật TTTM năm 2010. Trọng tài viên phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn được quy định tại Điều 20 Luật TTTM năm 2010. Trọng tài là một tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Bản thân các Trọng tài viên cũng không phải là cán bộ, công chức, viên chức.
– Thứ ba, giải quyết tranh chấp thương mại bằng TTTM đảm bảo sự kết hợp hai yếu tố: thỏa thuận và phần quyết.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là phương thức đảm bảo quyền tự định đoạt cao nhất của các bên. Các bên tranh chấp có thể thống nhất, thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài, Trọng tài viên, địa điểm giải quyết hay luật áp dụng. Các bên có thể thỏa thuận trọng tài về việc giải quyết bằng Trọng tải tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Khác với phán quyết của toà án có thể bằng bản án hoặc quyết định (mang tính quyền lực nhà nước) thi phán quyết của trọng tải bằng quyết định nhân danh và vì lợi ích của các bên tranh chấp (không mang tính quyền lực nhà nước). Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật LVN Group về các vấn đề liên quan đến quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại cũng như các vấn đề liên quan khác.