Quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng.

Khái niệm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng? Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về nhân thân?

Trong quan hệ dân sự, bên cạnh các quan hệ tài sản thì quan hệ nhân thân là một trong hai đối tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật dân sự và là một loại quan hệ mang tính xã hội sâu sắc, rộng lớn, phản ánh sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Quan hệ nhận thân có những vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn gắn liền đối với mỗi chủ thể, đặc biệt là mối quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

LVN Group tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.0191

1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng:

Quan hệ nhân thân có đặc điểm cơ bản đó là quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của mỗi chủ thể, không thể chuyển dịch cho người khác.

Căn cứ làm phát sinh quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng đó là sự kiện kết hôn giữa hai chủ thể này. Sự kiện này xảy ra đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng.

Quyền và nghĩa vụ nhân thân về cơ bản sẽ mang yếu tố tình cảm, là lợi ích tinh thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nội dung của quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng là lợi ích tinh thần, là yếu tố tình cảm, không mang nội dung kinh tế, không phụ thuộc vào khả năng kinh tế của vợ chồng.

Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng được hiểu là chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa hai chủ thể đó là vợ và chồng. Do đó, khi điều chỉnh những quan hệ này thì pháp luật nước ta phải kết hợp giữa các quy định của pháp luật với những quy tắc đạo đức và lẽ sống trong xã hội.

2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về nhân thân:

Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng được quy định tại Điều 17, 18,19, 20, 21, 22, 23 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bao gồm các quyền và nghĩa vụ cụ thể sau đây:

– Thứ nhất: Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng theo Điều 17 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của vợ chồng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được quy định cụ thể như sau:

+ Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng được tôn trọng và bảo vệ.

+ Quyền tự do lựa chọn nơi cư trú, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính.

+ Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.

+ Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trên cơ sở sự bàn bạc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau giữa vợ và chồng. Khi vợ hoặc chồng thực hiện quyền của họ thì người kia không được có hành vi ngăn cản.

+ Quyền được tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Ta nhận thấy, theo quy định pháp luật hiện hành thì vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân gia đình và các luật khác có liên quan.

– Thứ hai: Bảo vệ quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng theo Điều 18 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng quy định tại Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan luôn được tôn trọng và bảo vệ.

– Thứ ba: Quyền và nghĩa vụ về tình nghĩa vợ chồng theo Điều 19 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nội dung cụ thể như sau:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu củá nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Tình yêu thương và sự chung thủy là hai yếu tố vô cùng quan trọng để giúp cho vợ chồng chung sống hạnh phúc và duy trì quan hệ hôn nhân bền vững. Vợ chồng luôn ý thức và giữ gìn tình cảm thương mến nhau. Trong quá trình hai bên đang tồn tại quan hệ hôn nhân, vợ và chồng sẽ không được chung sống như vợ chồng với người khác. Tuy nhiên, trên thực tế, bởi vì lối sống của một bộ phận dân cư đã thay đổi nên giá trị gia đình cũng thay đổi theo. Hiện tượng người đang có vợ hoặc có chồng chung sống hoặc quan hệ như vợ chồng với người khác xảy ra tương đối phổ biến và gây ra những hệ luỵ nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc chồng.

Sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau giữa vợ và chồng thể hiện ở hành vi, cách xử sự và thái độ của họ đối với nhau. Mọi hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm giữa vợ và chồng bị nghiêm cấm. Hiện nay, tình trạng bạo lực gia đình xảy ra tương đối phổ biến trong các gia đình mà nạn nhân có thể là vợ hoặc chồng. Bạo lực giữa vợ và chồng đã vi phạm quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ly hôn hiện nay.

Vợ chồng cùng phải có ý thức chăm sóc lẫn nhau cả về vật chất lẫn tinh thần, chăm lo cho gia đình, bảo đảm cho gia đình tồn tại và phát triển theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra là gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”. Đây vừa là nghĩa vụ về pháp lý vừa là nghĩa vụ về đạo đức.

Pháp luật cũng quy định rõ rằng rằng, vợ chồng phải cùng nhau chia sẻ công việc gia đình. Mỗi bên vợ, chồng phải nhận thức và hành động đúng pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình từ đó cần xóa bỏ định kiến giới và tình trạng phân công lao động truyền thống là lao động việc nhà thuộc về phụ nữ.

Vợ chồng phải chung sống với nhau để có thể thực hiện tốt nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên, tùy hoàn cảnh của mỗi cặp vợ chồng mà họ có thể thỏa thuận về việc sống chung hay sống riêng. Đối với trường hợp vì lý do nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác thì vợ, chồng có thể không sống chung với nhau.

Ta nhận thấy, pháp luật quy định rất rõ ràng rằng, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Ngoài ra, vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

– Thứ ba: Bảo đảm quyền lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng theo Điều 20 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Pháp luật quy định đối với việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận với nhau, không bị ràng buộc bởi phong tục tập quán, địa giới hành chính.

– Thứ tư: Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng theo Điều 21 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Theo quy định pháp luật thì cả vợ và chồng đều có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.

– Thứ năm: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng Điều 22 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Vợ và chồng khi đã về chung một mái nhà có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.

– Thứ sáu: Quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Điều 23 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Vợ và chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

– Ngoài ra, vợ chồng có thể đại diện cho nhau theo pháp luật hoặc theo ủy quyền.

+ Đại diện theo pháp luật:

Theo quy định của pháp luật dân sự và pháp Luật Hôn nhân và gia đình thì đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng phát sinh trong các trường hợp cụ thể sau đây: Một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ; khi một bên bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Toà án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó; khi vợ chồng kinh doanh chung hoặc đưa tài sản chung vào kinh doanh hay khi tài sản chung của vợ chồng mà giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên.

+ Đại diện theo ủy quyền:

Pháp luật quy định rằng các chủ thể là vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

Theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc ủy quyền giữa vợ và chồng sẽ phải được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên. Căn cứ vào văn bản ủy quyền, vợ hoặc chồng (bên được ủy quyền) có thể thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của bên ủy quyền.

Trong đại diện theo ủy quyền, chủ thể là người được ủy quyền (người đại diện) chỉ được thực hiện hành vi trong phạm vi được ủy quyền. Nếu người được ủy quyền thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi được ủy quyền thì người được ủy quyền phải thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ ba (người đã tham gia giao dịch với người đại diện) phần giao dịch vượt quá đó. Người ủy quyền (người được đại diện) không phải thực hiện nghĩa vụ đối với phần vượt quá này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com