Vấn đề này được quy định tại Luật Thương mại 2005 và Nghị định 42/2014/NĐ-CP.
Khoản 4, Điều 3, Nghị định 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp quy định: “Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là thỏa thuận xác lập mối quan hệ giữa người muốn tham gia bán hàng đa cấp và doanh nghiệp bán hàng đa cấp trong hoạt động bán hàng đa cấp”.
Căn cứ vào các quy định tại Luật Thương mại 2005, có thể định nghĩa về hợp đồng đại lý như sau: hợp đồng đại lý là thỏa thuận giữa bên giao đại lý và bên đại lý về việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp và hợp đồng đại lý bán hàng tuy đều là hợp đồng trung gian tiêu thụ. Tuy nhiên, chúng vẫn có những điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, về tư cách của người bán hàng: Trong hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, người tham gia bán hàng nhân danh chính mình, tự mình quyết định mọi việc và tự gánh chịu về kết quả bán hàng. Trong hợp đồng đại lý bán hàng, bên đại lý tuy cũng nhân danh chính mình trong việc bán hàng hóa nhưng vẫn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý.
Thứ hai, về quyền sở hữu hàng hóa: Người tham gia mạng lưới trong hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp sẽ là chủ sở hữu của hàng hóa. Trong khi đó, với hợp đồng đại lý bán hàng, quyền sở hữu hàng hóa không được chuyển giao, bên giao đại lý vẫn là chủ sở hữu đối với hàng hoá giao cho bên đại lý.
>>> LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.0191
Thứ ba, về cách tính thù lao: Thù lao của người tham gia bán hàng đa cấp chính là hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc bán hàng của mình và của người tham gia khác do mình tổ chức. Trong khi đó, thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng (tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ) hoặc chênh lệch giá (được xác định là mức chênh lệch giữa giá bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao đại lý ấn định cho bên đại lý).
Thứ tư, theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trong hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp chỉ được phép kinh doanh hàng hóa, mọi loại hình dịch vụ hoặc các loại hình kinh doanh khác không phải là mua bán hàng hóa thì không được tiến hành kinh doanh theo phương thức đa cấp. Trong khi đó, với hợp đồng đại lý thì các bên có thể thỏa thuận về việc bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ.