Khái niệm và đặc điểm của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự? Tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng tài sản để đảm bảo thi hành án?
Đối với một vụ án dân sự khi có phán quyết của Tòa án bằng Bản án và quyết định của Tòa án thì ngay lúc đó sẽ xác lập việc thi hành án của đương sự trong vụ án tranh chấp dân sự đó. Tuy nhiên, trong quá trình cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc thi hành án đối với những người này thì không ít người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành án nhưng lại không tự mình thực hiện nghĩa vụ này mà ngược lại thì lại có tâm lý có tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án.
Bởi vì biết trước điều này nên pháp luật hiện hành nước ta đã dự liệu được trước cho nên đã ban hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác để quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án để tránh tình trạng hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án của người được quy định phải thi hành án. Trong đó pháp luật này có quy định về việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng tài sản để đảm bảo thi hành án. Vậy nội dung của biện pháp bảo đảm tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng tài sản để đảm bảo thi hành án có nội dung như thế nào? Trong nội dung bài viết dưới đây, Luật LVN Group sẽ giúp quý bạn đọc hiểu về nội dung này như sau:
LVN Group tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.0191
Cơ sở pháp lý:
– Luật thi hành án dân sự 2008;
– Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.
1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Trên cơ sở quy định của Pháp luật Thi hành án dân sự thì định nghĩa về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được xác định dưới góc độ pháp lý này thì có thể thấy là biện pháp pháp lí mang tính quyền lực nhà nước. Chính vì là biện pháp mang tính quyền lực của Nhà nước cho nên trong trường hợp cần thiết chỉ cần cơ quan thi hành án dân sự có căn cứ cho rằng tài sản mà người phải thi hành án hoặc người thứ ba đang quản lí, sử dụng thuộc sở hữu của người phải thi hành án thì có thể áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án với số tài sản này.
Sau khi đã áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án và nếu có căn cứ khẳng định tài sản đó thuộc quyền sờ hữu của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp. Từ khái niệm trên, có thể đưa ra các đặc điểm của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như sau:
Thứ nhất, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước. Theo quy định này thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Chính vì thế mà có thể khẳng định rằng việc người được thi hành án không có quyền tự mình dùng sức mạnh để buộc người phải thi hành án thi hành pháp cưỡng chế thi hành án được xem là giải pháp cuối cùng và cần thiết nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người được thi hành án và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật trước thái độ không chấp hành án của người phải thi hành án.
Thứ ba, đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án. Đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án hình sự là quyền tự do thân thể hoặc tính mạng của con người còn đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án.
Bên cạnh đó, căn cứ theo như quy định tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lí tiền, giấy tờ có giá; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xừ lí tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, quyền tài sản; buộc phải thực hiện hoặc không được thực hiện hành vi nhất định đều không nhằm mục đích trừng trị người phải thi hành án mà chỉ nhằm mục đích buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự của mình đối với người được thi hành án.
Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do toà án tuyên họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Từ đặc điểm này thì người phải thi hành án có bổn phận thi hành các nghĩa của họ đã được xác định trong bản án, quyết định. Việc người phải thấy trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nếu không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì sẽ không thể thi hành án được.
2. Tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng tài sản để đảm bảo thi hành án
Trên cơ sở quy định của pháp luật tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định về biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản được quy định. Để nhằm ngăn chặc hoặc tạm dừng các hành vi của người phải thi hành án như chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản. việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự này là tiền đề cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự kê biện, xử lý tài sản của người phải thi hành án; cưỡng chế trả vật, chuyển quyền sử dụng đất thì cơ quan thi hành án dân sự đã áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án và biện pháp này được xác định là một trong ba biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng đối với các động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản của người phải thi hành án. Chính vì vậy, theo quy định tại Điều 69 này có nội dung quy định về các trường hợp áp dụng biện pháp bảo đảm tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, cụ thể:
“Điều 69. Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản
1. Trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh việc thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, tài sản chung của người phải thi hành án với người khác.
2. Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
3. Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản.
Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của pháp luật.
4. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Chương IV của Luật này; trường hợp có căn cứ xác định tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản”.
Từ quy định nêu ở trên, có thể thấy rằng Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế t rong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án. Bên cạnh đó thì đối với trường hợp có căn cứ xác định tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
Trên cơ sở đó, có thể thấy rằng, trong thực tế hiện nay thì việc thi hành án dân sự ở nước ta đã thể thiện ý thức tự nguyện thi hành án của các đương sự .Bên cạnh những gì đạt được thì theo như quy định tại Điều này còn có nhiều hạn chế dẫn đến việc phải thi hành các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự luôn chiếm tỷ lệ cao. Chính vì thế, các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự cần tiếp tục được quy định tại Luật Thi hành án dân sự trên cơ sở kế thừa, bổ sung, sửa đổi các quy định hiện hành để phù hợp hơn với thực tiễn hiện nay và bảo đảm tốt hơn cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trên đây là bài phân tích mới nhất của Luật LVN Group về tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng tài sản để đảm bảo thi hành án theo quy định mới nhất năm 2021. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào liên quan đến trường hợp này hoặc các vấn đề pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự khác, vui lòng liên hệ: 1900.0191 để được tư vấn – hỗ trợ!