Quyền tranh luận theo Luật Tố tụng dân sự? Trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa dân sự?
Hiện nay, việc quy định về pháp luật tố tụng trong các vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự tất cả đều dựa trên theo xu hướng của mô hình tố tụng tranh tụng. Điều đặc biệt là, đối với những vụ án dân sự thì việc quy định tố tụng theo xu hướng tranh tụng là rất hợp lý và phù hợp với pháp luật nước ta và tính chất của vụ án. Bởi lẽ, pháp luật tố tụng nước ta có quy định về vấn đề tranh tụng trong vụ án là dựa trên nguyên tắc để những người tham gia tố tụng có thể tự mình bảo vệ quyền lợi chính dáng của mình.
Mặc dù, pháp luật tố tụng hiện hành có quy định về vấn đề tranh tụng nhưng việc các bên tham gia vào quá trình phát biểu tranh tụng tại phiên Tòa cần tuân theo một trình tự nhất định mà pháp luật này quy định. Để đảm bảo việc người nói phải có người nghe và giữ được tôn nghiêm tại phiên Tòa, không những thế việc phát biểu còn phải thực hiện theo sự dẫn dắt của Chủ tòa phiên Tòa. Vậy pháp luật hiện hành quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm như thế nào? Trong bài viết dưới đây, Luật LVN Group sẽ giải đáp thắc mắc về việc này như sau:
Tổng đài LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.0191
Cơ sở pháp lý:
– Bộ Luật Dân sự 2015
1. Quyền tranh luận theo Luật Tố tụng dân sự
Trên cơ sở quy định tại khoản 20, Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đương sự hay còn được biết đên là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền tranh luận tại phiên tòa, có quyền đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng. Do đó, tranh luận theo như quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành có thể được hiểu theo cách thông thường là bàn cãi tìm ra lý lẽ việc quy định về giai đoạn này được khẳng định là một phần tố tụng của phiên tòa, được tiến hành ngay sau khi kết thúc phần xét hỏi của phiên tòa xét xử. Thông thường thì việc này được những nhà làm luật và những người học luật gọi và hay nhắc đến tranh tụng, bởi lẽ tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Tranh luận bao hàm cả hoạt động tranh tụng trước khi mở phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa và tranh tụng sau khi có quyết định giải quyết vụ án dân sự.
Trước khi đi sâu vào tìm hiểu quyền phát biểu trang tụng tại phiên tòa sơ thẩm được quy định như thế nào? thì trước tiên cần làm rõ về khái niệm tranh luận tại phiên tòa được hiểu như thế nào? Do đó, có thể hiểu một cách đơn giản nhất thì tang luận tại phiên Tòa là hoạt động trung tâm của phiên tòa và việc này đã bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Chính vì điều này nên Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định mở rộng quyền tranh luận của những người tham gia tố tụng mà củ thể ở đây là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, đề cao vai trò chủ động của đương sự trong việc tranh luận ở tại phiên tòa
Bên cạnh đó theo như quy định tại Điều 24 Bộ luật này quy định quyền bảo đảm tranh tụng trong xét xử có quy định về việc Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã khẳng định cải cách theo xu hướng của mô hình tố tụng tranh tụng. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng có phạm vi tác động không chỉ đối với tòa án mà đối với cả quá trình tố tụng nói chung, và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử đòi hỏi đề cao vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn xét xử mà cả các giai đoạn tố tụng trước đó. Không những thế, là cơ quan nhà nước, viện kiểm sát có những đặc quyền mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khó có thể có. Tuy nhiên, về cơ bản người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và viện kiểm sát phải có các quyền ngang nhau để có thể tạo ra một sự tranh tụng công bằng khi xét xử.
2. Trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa dân sự
Trong quá trình xét xử vụ án dân sự, việc phát biểu của những người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng khi tranh luận trong phần tranh tụng tại phiên tòa phải tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm trong tố tụng dân sự được quy định tại Điều 260 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, theo đó:
“1. Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau:
a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận, đối đáp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến;
d) Các đương sự đối đáp theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa;
đ) Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án.
2. Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự mình trình bày khi tranh luận.
3. Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp”.
Từ quy định nêu ở trên, có thể thấy rằng việc bắt đầu tranh luận của phiên tòa dân sự được bắt đầu bằng việc những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phát biểu tranh luận tại phiên tòa dân sự được quy định tại Điều 260 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015, sau khi kết thúc về việc xét hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. Trình tự được thực hiện như sau:
Thứ nhất, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày những nội dung để thực hiện quá trình bổ sung và đưa ra các luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn. Sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày xong thì nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì người đại diện trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến;
Thứ hai, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận, đối đáp với những dẫn chứng, lập luận của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và nguyên đơn vừa nêu ra. Sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tranh luận xong thì bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
Thứ ba, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của mình để tạo những chứng cứ có lợi cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Sau đó người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến;
Thứ tư, Các đương sự thực hiện việc đối đáp theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án. Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự mình trình bày khi tranh luận;
Phát biểu khi tranh luận được xác định là khi tiến hành phát biểu về việc đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về giải quyết vụ án, những người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả việc hỏi tại phiên tòa. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
Phát biểu của Kiểm sát viên được tiến hành thực hiện ngay sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Kết thúc tranh luận được Chủ tọa phiện tòa tuyên bố nếu xét thấy không có tình tiết nào của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét đã đầy đủ hoặc không cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử kết thúc phần tranh luận và đi vào phòng nghị án để nghị án.
Trên đây là bài phân tích mới nhất của Luật LVN Group về trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm theo quy định mới nhất năm 2021. Nếu còn bất cứ thắc mắc nào liên quan đến trường hợp này hoặc các vấn đề pháp luật về phát biểu khi tranh luận khác, vui lòng liên hệ: 1900.0191 để được tư vấn – hỗ trợ!