Xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

Thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín? Xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm?

Trong quy định của hiến pháp và pháp luật nước ta đã có quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Chính vì vậy mà không ai được tự cho mình quyền bôi nhọ do danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, nếu người nào cố tình thực hiện hành vi bôi nhọ do danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vậy để xác định được mức bồi thường, hình thức xử phạt đối với người cố tình gây ảnh hưởng đến do danh dự, nhân phẩm, uy tín thì Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản khác ban hành có quy định về vấn đề này như thế nào? Cách xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được pháp luật hiện hành quy định như thế nào thì chắc hẳn không phải ai cũng nắm rõ được nội dung này. Chính vì vậy, trong bài viết dưới đây, Luật LVN Group sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu rõ hơn về nội dung này, cụ thể:

Dịch vụ LVN Group tư vấn pháp luật qua điện thoại: 1900.0191

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015

1. Thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín?

Pháp luật dân sự không có khái niệm cụ thể về danh dự, nhân phẩm, tuy nhiên theo tự điển tiếng Việt và qua thực tế giải quyết thì chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau: Danh dự là sự coi trọng của xã hội về con người hoặc tổ chức nào đó và được thừa nhận như một quyền nhân thân. Là phạm trù cá nhân mang tính xã hội, luôn gắn liền với chủ thể xác định, là một trong những yếu tố để khẳng định vai trò, vị trí, uy tín của một người hoặc một tổ chức trong xã hội, được Hiến pháp, pháp luật bảo hộ, không ai được xâm phạm. Uy tín là khả năng tác động của người đó đến người khác, là sự ảnh hưởng đến người khác, cảm hóa người khác, làm cho người khác tin tưởng, phục tùng và tuân theo mình một cách tự giác. Nhân phẩm là toàn bộ những phẩm chất mà mỗi con người có được. Nói cách khác, nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi con người.

Từ đó có thể khẳng định một điều rằng, danh dự, nhân phẩm, uy tín là những yếu tố nhân thân phi tài sản gắn liền với mỗi cá nhân, thể hiện phẩm chất, đạo đức và giá trị của mỗi cá nhân. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

Việt Nam là một trong số các quốc gia trên thế giới có quy định về việc bảo vệ quyền con người tron Hiến pháp, trong đó, quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, từ Hiến pháp đến Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành ban hành kèm the. Điều này được khẳng định tại Điều 20, 21 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”; “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình”. Như vậy, dựa trên quy định của pháp luật Hiến pháp hiện hành của nước ta, đặc biệt có quy định về vấn đề danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân là công dân Việt Nam là bất khả xâm phạm và quyền bất khả xâm phạm này sẽ được pháp luật bảo hộ, mỗi cá nhân có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín của mình khi bị xâm phạm trước các quy định của pháp luật hiện hành.

Để tìm hiểu kỹ hơn về quy định của Hiến pháp năm 2013, tại Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về vấn đề này chi tiết và rõ ràng hơn, cụ thể được ghi nhận quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân tại Điều 34. Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định cụ thể về thời hạn, phương thức để bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Theo đó, mỗi cá nhân có quyền yêu cầu tòa án bác bỏ những thông tin làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Khi danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ các thông tin đã gây ảnh hưởng xấu đến cá nhân. Cá nhân không chỉ được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín khi còn sổng mà cả khi cá nhân đã chết thì pháp luật vẫn duy trì sự bảo hộ. Cụ thể, vợ, chồng hoặc con thành niên của người bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín; hoặc cha, mẹ của cá nhân này trong trường hợp cá nhân không có vợ, chồng, con thành niên.

2. Xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

Trên thực tế thì việc xác định giá trị của danh dự, nhân phẩm, uy tín bằng tiền là một điều không thể, bởi lẽ, đối với những thứ có giá trị nhân thân thì không thể nào xác định được bằng tiền. Nhưng việc này không có nghĩa là việc người khác thực hiện hành vi xâm phạm đến những giá trị này mà gây ra thiệt hại thì những thiệt hại mà chủ thể bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải gánh chịu bao gồm cả thiệt hại vật và tổn thất tinh thần.  Rõ ràng, hậu quả mà chủ thể bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải gánh chịu cũng rất nghiêm trọng. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm có thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, uy tín của tổ chức bị xâm phạm được quy định trực tiếp tại Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể:

“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

c) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

Ngoài bị phạt tiền hoặc bị phạt tù tùy vào mức độ vi phạm, khoản 5 Điều 34 Bộ luật Dân sự nêu rõ: “Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”

Đồng thời, khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự cũng khẳng định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Như vậy, khi một cá nhân bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín mà có thiệt hại xảy ra thì có quyền yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại và người vi phạm có nghĩa vụ phải bồi thường cho người này. Về việc bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, khoản 1 Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định gồm các loại thiệt hại về chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; Thiệt hại khác do luật quy định,…

Trong đó, việc ấn định mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường do các bên thỏa thuận theo quy định tại khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự. Nếu các bên không thỏa thuận được thì xác định mức bồi thường dựa theo các yếu tố về căn cứ vào thiệt hại thực tế mà người bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm phải chịu để hạn chế, khắc phục thiệt hại; do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Những thiệt hại này phải có chứng từ, hóa đơn kèm theo gồm các chi phí theo hướng dẫn của Nghị quyết 03/2006 gồm: Chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; Tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; Thu nhập mà bị mất hoặc bị giảm sút… Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời dựa theo mức thiệt hại thực tế xảy ra. Riêng mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết sẽ do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá 10 mức lương cơ sở.

Hiện nay, lương cơ sở đang là 1,6 triệu đồng/tháng theo Nghị quyết 86/2019/QH14. Như vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại khi có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, hai bên có thể tự thỏa thuận với nhau về mức bồi thường. Do đó, nếu thỏa thuận được thì không giới hạn con số mà các bên phải bồi thường cho nhau, có thể là một triệu, một trăm triệu, một tỷ, một nghìn tỷ đồng… hoặc thậm chí chỉ cần một câu xin lỗi. Nhưng do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp mà theo Nghị quyết sô 128/ 2020/QH 14 quốc hội dự toán ngân sách năm 2020 thì quốc hội đã quyết định chưa điều chỉnh mức lương tức là không thực hiện tăng mức lương cơ sở của năm 2020- 2021 mà vẫn giữ nguyên mức lương cơ sở theo giai đoạn năm 2019- 2020 là 1.49 triệu đồng / tháng để dành kinh phí cho phòng chống covid 19. Do đó, việc bồi thường thỏa thuận sẽ vẫn tính theo mức lương cơ sở giai đoạn năm 2019-2020.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com