Quy định của pháp luật về sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm? Phân biệt giữa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm?
Trong tố tụng sẽ có các giai đoạn xét xử và thủ tục tố tụng như sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. ở mỗi thủ tục sẽ có những đặc trưng riêng. Vậy để phân biệt giữa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì dựa theo những yếu tố nào?
Cơ sở pháp lý
Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Dịch vụ LVN Group tư vấn pháp luật qua điện thoại: 1900.0191
1. Quy định của pháp luật về sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm:
Sơ thẩm theo quy định của pháp luật là xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự được bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án hình sự cùng bản cáo trạng hay quyết định truy tố do Viện kiểm sát chuyển đến, và kết thúc khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật.
Xét xử sơ thẩm chính là xét xử lần đầu, là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự, mà ở đó, hoạt động của Tòa án sẽ đóng vai trò chính và là trọng tâm.
Có thể thấy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của tố tụng hình sự hiện nay. Hoạt động xét xử sơ thẩm góp phần nâng cao ý thức phòng ngừa và phòng, chống tội phạm, từ đây, xét xử sơ thẩm sẽ góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua xét xử công khai, xét xử sơ thẩm sẽ góp phần giáo dục công dân về việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội.
Phúc thẩm theo quy định của pháp luật là xét xử phúc thẩm cũng. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án hình sự hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Để loại trừ những trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm không đáp ứng được yêu cầu của pháp luật pháp luật nước ta đã có những quy định về giai đoạn xét xử phúc thẩm. Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành đã quy định nhiều biện pháp bảo đảm cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, nhưng không thể. Quy định về chế định xét xử phúc thẩm là hoàn toàn hợp lý, để đảm bảo quyền phản đối bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Viện kiểm sát cũng như các bên liên quan.
Thông qua việc thực hiện công tác giám đốc xét xử, phát hiện và sửa chữa sai lầm của Tòa án cấp dưới, Tòa án cấp phúc thẩm có thể hướng dẫn Tòa án cấp dưới giải thích và vận dụng đúng pháp luật, và vì vậy, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử và bảo đảm áp dụng pháp luật tố tụng hình sự được đúng đắn, thống nhất.
Xét xử phúc thẩm góp phần sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết vụ án hình sự của Tòa án cấp sơ thẩm, qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật là thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt, mà theo thủ tục này thì Tòa án có thẩm quyền tiến hành xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.
giám đốc thẩm là thủ tục có đặc thù riêng so với xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.
Giám đốc thẩm không phải là hoạt động xét xử vụ án mà là hoạt động xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì trước hết phải có văn bản kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền, được ban hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trên cơ sở căn cứ do Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định. Như vậy, văn bản kháng nghị sẽ là cơ sở cần thiết để xét lại vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thủ tục giám đốc còn góp phần đảm bảo công bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án cũng như đảm bảo uy tín của các cơ quan tư pháp.Đồng thời, góp phần đáp ứng những đòi hỏi của nhà nước pháp quyền khi là một trong những cơ chế để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát pháp luật, qua đó đảm bảo cho hoạt động xét xử được hợp pháp và hợp hiến.
Tái thẩm theo quy định của pháp luật là thủ tục tố tụng hình sự, mà theo thủ tục này thì Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị cơ quan có thẩm quyền kháng nghị vì mới phát hiện tình tiết làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết khi ra bản án, quyết định đó.
Việc đặt ra vấn đề phải xem xét lại một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì mới phát hiện tình tiết làm thay đổi cơ bản nội dung của nó là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của pháp luật tố tụng hình sự và pháp chế xã hội chủ nghĩa hiện nay.Bởi trên thực tế, sẽ có những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành, nhưng trong quá trình xét xử thì việc đánh giá, nhận thức sai về các tình tiết của vụ án hoàn toàn có thể xảy ra.
Tái thẩm là một thủ tục tố tụng giúp khắc phục sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tục tái thẩm đảm bảo vụ án được giải quyết khách quan và công bằng, qua đó xử lý được đúng người phạm tội và không làm oan người vô tội. Thủ tục tái thẩm góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, góp phần bảo đảm sự tồn tại của nguyên tắc nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
2. Phân biệt giữa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm:
Căn cứ vào tính chất, nội dung và phạm vi xét xử ta sẽ phân ra thành hai nhóm có sự gây nhầm lẫn trong quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng đó là sơ thẩm- phúc thẩm; giám đốc thẩm- tái thẩm.Theo đó,
Phân biệt sơ thẩm với phúc thẩm như sau:
Về cơ sở pháp lý: Sơ thẩm được quy định cụ thể trong Chương XXI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 .Còn Phúc thẩm được quy định cụ thể trong chương XXII Bộ luật Tố tụng hình sự năm
Về tính chất: Đối với thủ tục sơ thì thẩm tòa án có thẩm quyền xét xử lần đầu vụ án hình sự. Còn đối với thủ tục phúc thẩm Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm của tòa án cấp dưới
Về thẩm quyền xét xử: Đối với thủ tuc sơ thẩm thì tòa án các cấp theo quy định tại mục I chương XXI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.Còn đối với thủ tục phúc thẩm Tòa án cấp trên trực tiếp của tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm.
Về phạm vi xét xử : Đôi với thủ tục sơ thẩm xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử; Xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Còn đối với thủ tục phúc thẩm phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị; Nếu thấy cần thiết có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị.
Phân biệt giám đốc thẩm với tái thẩm như sau:
Về cơ sở pháp lý : Giám đốc thẩm được quy định rất cụ thể tại Chương XXV Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Còn Tái thẩm được quy định cụ thể tại chương XXVI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Về tính chất: Thủ tục Giám đốc thẩm được tiến hành khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng.Còn thủ tục Tái thẩm được tiến hành khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đó.
Về Căn cứ để kháng nghị : Đối với thủ tục Giám đốc thẩm thì sẽ căn cứ vào kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.Còn đối với thủ tục Tái thẩm thì sẽ căn cứ vào việc có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật;Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
Về thời hạn kháng nghị : Đối với thủ tục Giám đốc thẩm thời hạn kháng nghị là không quá 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đối với trường hợp không có lợi cho người bị kết án;Có thể được tiến hành bất cứ lúc nào đối với trường hợp có lợi cho người bị kết án.
Còn đối với thủ tục Tái thẩm thời hạn kháng nghị là không quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện đối với trường hợp không có lợi cho người bị kết án Không hạn chế về thời gian đối với trường hợp có lợi cho người bị kết án.
Như vậy, từ những lập luận và phân tích như trên có thể thấy giữa các thủ tục tố tụng sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có những điểm khác biệt nhất định. Ta sẽ căn cứ vào tính chất, phạm vi xét xử, thẩm quyền xét xử,… để phân biệt các thủ tục này.