Phân tích Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ hay nhất

Nhắc đến Đỗ Phủ ai cũng sẽ nghĩ đến ngay Cảm xúc mùa thu, thế nhưng mấy ai có thể hiểu rõ được ẩn dấu dưới từng vần thơ đó là một bầu trời tâm tình tâm huyết của ông. Để có thể nắm rõ và phân tích sâu sắc hơn mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây

1. Phân tích Cảm xúc mùa thu hay nhất

Nhà thơ Đỗ Phủ (712 – 770) tên chữ là Tử Mĩ, người huyện Củng ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông xuất thân trong gia đình truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Ông có rất nhiều sáng tác và hàng ngàn bài thơ phong phú, phản ánh sinh động các sự kiện lịch sử. Sự đóng góp của ông cho nền thi ca Trung Quốc và nền văn hóa nhân loại vô cùng to lớn và được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Bên cạnh những bài thơ được coi là “thi sử”, ông còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc của mình. Trong đó không thể không kể bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi còn sống phiêu bạt tại Quý Châu. Thu hứng vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, lại là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, thương nhớ quê hương và xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

Bài thơ có thể chia làm hai phần: Bốn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi Trường Giang. Bốn câu sau thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách.

Cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, cái thần của chiều thu được nêu bật lên:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.

Có thể được thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, nên tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của ông thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong: Trong thơ cổ Trung Hoa, rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về sẽ có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu và sự lạnh lẽo. Sương dày đặc khiến cả rừng phong xơ xác. Cảnh vật tôn lên theo tâm trạng của nhà thơ .

Câu thứ hai: Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Từ lòa với từ hiu hắt mới lột tả được một phần ý nghĩa cụm từ khi tiêu sâm. Suốt cả bảy trăm dặm, núi tiếp núi, tuyệt không có một chỗ trống. Vào mùa thu, khung cảnh nay đã vốn ảm đạm, lạnh lẽo, thế nhưng qua ngòi bút li sầu của Đỗ Phủ càng thêm tối tăm. Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu hai cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác cách nhìn và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.

Tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng bi sầu nên Đỗ Phủ lại viết nên câu thơ tả thực đầy ám ảnh:

Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Hai câu đề là cảnh thu trên cao, đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và miêu tả bằng ngọn bút kì tài thành vần thơ trác tuyệt. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông và cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên che luôn cả cửa ải.

Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu, đặt cạnh nhau thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiển hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang. Trước khung cảnh như vậy, nhà thơ với trái tim nhạy cảm Đỗ Phủ nỗi nhớ thương quê cũ càng đến cháy lòng.

Bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ trải lòng cảnh mùa thu nơi đất khách:

Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.

Nhắc đến hoa cúc, không có gì mới khi mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên chữ Hán: Tùng cúc lường khai tha nhật lệ. Nguyễn Công Trứ dịch: Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, người đọc dễ hình dung ra tâm trạng cô đơn sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xa quê hương. Hai lần nhìn cúc nở hoa, nghĩa là hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc – thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì thế càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) một ẩn dụ đầy ý nghĩa không vì tính chất trôi nổi, đơn độc mà nó còn là phương tiện duy nhất chở ước vọng nhà thơ về với quê hương.

Hai câu kết:

Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

Hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải. Âm thanh này đem đến bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi áng mây buồn đang vây phủ nơi tâm hồn thi sĩ.

Khí thu lạnh lẽo nhắc nhở rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh cho việc may áo ấm. Đọc lại câu thơ thứ tư: Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u.  Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con bao người còn trấn giữ nơi ải xa. Trời tối rồi (mộ), không thấy gì, nhà thơ chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính. Đỗ Phủ thấy không lời lẽ nào nói được hết nỗi niềm Thu hứng.

Nghệ thuật ở đây là kết cấu hết sức chặt chẽ đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu “, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Có cả sương thu, rừng thu, lẫn sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu và cả tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái mùa thu trong bài thơ. Chiến tranh xảy ra, Đỗ Phủ phải phiêu bạt đến tận góc trời xa thẳm. Trong lòng ông luôn ôm ấp hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. 

Trong bài thơ, mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn ở mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người.

Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ khôn nguôi. Thu hứng góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được  tôn vinh lá bậc “Thi thánh” của thơ.

2. Phân tích Cảm xúc mùa thu ngắn gọn nhất:

Từ khi bước chân vào trường tới bây giờ chắc hẳn ai cũng đã từng đọc thơ của Đỗ Phủ. Thơ ông ngổn ngang một bầu trời tâm trạng, một tấm lòng yêu thương con người, yêu đời tha thiết

Đỗ phủ sinh ra và lớn lên trong tình cảnh đất nước Trung Quốc triền miên trong cảnh loạn li mặc dù ông giữ một chức quan nhưng ông cũng đã rơi vào tình cảnh phiêu bạt. Đỗ Phủ là nhà thơ lớn nhất không chỉ của thơ Đường mà trong cả lịch sử Trung Quốc. Ông để lai cho nhân loại vô số tác phẩm và nhắc đến nhiều nhất trong số đó là bài “Thu Hứng” – bức tranh mùa thu hiu hắt, cũng là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Đường thời bấy giờ.

Bốn câu thơ đầu là cảnh trong tầm mắt rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Bốn câu thơ đầu tả cảnh thu đầy màu sắc và âm thanh vừa có chất vừa có họa. Ông đang đứng ở vị trí tương đối cao để có thể ngắm nhìn toàn cảnh vật vì thế khả năng quan sát của ông cũng khá cao và rộng nên ông đứng ở đó có thể nhìn được toàn cảnh thiên nhiên mùa thu. Mùa thu gắn với cánh rừng phong đang mùa rụng lá, cảnh rừng phong chuyển sang màu đỏ tượng trưng cho màu sắc của sự li biệt của sự cách xa. Cảnh vật buồn cùng với tâm trạng buồn của nhà thơ được miêu tả rõ khiến hình ảnh rừng phong càng gợi lên một sắc thu tiêu điều.

Hai câu đầu, ẩn dụ và nhân hóa với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Hai câu thơ tiếp tả cảnh thực đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu như hai câu thơ đầu tiên là tả cảnh trên cao thì hai câu thơ tiếp theo thì tả cảnh dưới thấp được cảm nhận qua đôi mắt tinh sảo của thi nhân chứa đựng rất nhiều tâm sự. Các từ “sóng rợn” “mây đùn” đã diễn tả cảnh trời đất rộng lớn bao la hùng vĩ trước con người nhỏ bé. Hai câu thơ đầu tả cảnh sắc buồn tẻ của thiên nhiên thì hai câu sau tả cảnh hùng vĩ của thiên nhiên như đối lập nhau khiến cho bài thơ thêm mới lạ và có đôi chút bí hiểm thu hút người đọc. Bốn câu thơ đầu tả cảnh thu, hai câu đề đặc tả cảnh sắc mùa thu đẫm uất bi thương, tàn tạ, hai câu thực tả cảnh thu hoành tráng dữ dội. Cảnh sắc mùa thu địa phương Quỳ Châu vừa âm u, vừa hùng vĩ, cảnh sắc ấy mang phong cách thơ của Đỗ Phủ vừa trầm uất, vừa bi tráng.

Bốn câu thơ sau nỗi lòng tác giả được thể hiện trực tiếp hơn cụ thể hơn:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Nhớ đến mùa thu nhớ ngay đến hoa cúc là điều bình thường nhưng cái lạ chính là loài hoa này xuất hiện thì dòng lệ rơi. Chữ “lệ” trong câu thơ làm lòng người hoang mang là lệ của hoa hay chính là lệ của nhà thơ. Nhưng có lẽ ta nên hiểu mỗi khi nhìn hoa nở thì nhà thơ lại chạnh lòng mà nhớ đến quê hương. Giọt nước mắt cứ thế mà tuôn rơi không thể nào ngừng lại được. Đây là hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là biểu tượng nghệ thuật. Khi mà chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ phải sống trên con thuyền trên sông Trường Giang. Con thuyền đã trở thành biểu tượng nghệ thuật văn học, ẩn dụ chỉ thân phận lênh đênh của con người. Ở hai câu cuối nổi lên một tiếng chày giặt vải trên dòng sông thứ âm thanh khiến ta có thể quên được đi cái nỗi nhớ quê hương đang chen lấn trong lòng nhà thơ. Âm thanh mùa thu vừa kết thúc thì bài thơ lại mở ra nỗi nhớ mênh mang sâu thẳm trong lòng nhà thơ. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã lên án mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. Bài thơ là nỗi u sầu là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của người nhớ quê hay tất cả người dân.

Đã từng sống ở thời chiến tranh thì ắt hẳn sẽ hiểu được tâm trạng của tác giả, chính thế đây cũng là bài rất hay ở thời bấy giờ. Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì xa lạ. Đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường thích sử dụng. Với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, ông sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Đây là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của mỗi tác giả mà còn là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi sống trong cảnh biệt li loạn lạc. Bài thơ mang đậm cảm xúc của Đỗ Phủ, cảm xúc ấy được thể hiện trong từng câu từng chữ của bài thơ. Bài thơ cũng cho thấy được cái hay của thơ thất ngôn bát cú mỗi câu thơ đều mang cái thần thái cái cảm xúc của nhà thơ được gửi trọn vào tác phẩm.

3. Phân tích Cảm xúc mùa thu có chọn lọc:

Nói đến văn thơ Trung Quốc, không ai là không biết đến  Đỗ Phủ (712-770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc,thường viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân. Ông để đời nhiều kiệt tác, và phải keerr đến “cảm xúc mùa thu” bài thơ thứ nhất trong chùm thơ “thu hứng” năm 766, lúc mà ông chạy nạn ở Quỳ Châu. “Cảm xúc mùa thu” vừa là bức tranh thu ảm đạm, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu  của nhà thơ trong lúc đất nước loạn lạc.

Bài thơ có thể chia hai phần, bốn câu đầu cảnh thu ảm đạm, hắt hiu. Bốn câu sau tả tình, là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa thu mà nỗi nhớ quê ùa về. 

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Tác giả đặt điểm nhìn của mình từ rừng núi xuống dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Nhắc đến phong người ta liên tưởng đến mùa thu, rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương. Sương móc trắng xóa, dày đặc xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá. Câu thứ hai càng làm nổi lên sự lạnh lẽo “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng mặt trời khó lọt xuống. Vào mùa thu không khí lạnh lẽo với cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ càng hiu hắt, ảm đạm. Qua hai câu đầu sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống. Sự đau buồn ấy, Đỗ Phủ viết lên những lời thơ sâu sắc:

Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tại thượng phong vân tiếp địa âm.

Hình ảnh đối lập được sử dụng vô cùng thú vị, sóng thì vọt lên tận lưng trời, còn mây thì sa sầm xuống mặt đất, thấp lên cao rồi cao xuống thấp, một sự vận động trái chiều. Cảnh thu chuyển động dữ dội khiến bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. Sự chuyển động chao đảo của cảnh vật, cũng là sự chao đảo xã hội lúc bấy giờ. Lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế lúc bấy giờ. Bốn câu thơ tả cảnh hiện lên bức tranh thu rộng lớn tiêu điều hiu hắt lại dữ dội, hùng vĩ. Chính những cảnh vật ấy đã gợi nỗi buồn tê tái, và thể hiện nỗi lo về yên bình nơi biên ải.

Cảnh thu ở phần thứ nhất đã khơi gợi nên cái tình ở nhà thơ. Bốn câu thơ sau nói về nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm.

Cúc đại diện của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp thế nhưng nhìn cúc tác giả lại rơi lệ. Chữ ” lệ” rất khó mà phân biệt lệ của người hay của hoa. Những giọt nước mắt cứ thế tuôn rơi mà không ngăn lại được, hoa cúc nở rồi lại nở càng khiến u sầu về nỗi nhớ quê nhà. “Cố chu” con thuyền cô độc, thấy con thuyền thì nỗi lòng tác giả càng dâng trào. Con thuyền trôi nổi, lưu lạc, là phương tiện mà nhà thơ gửi gắm nỗi long về quê nhà. Với nghệ thuật ẩn dụ tinh xảo hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết của nhà thơ.

Hai câu cuối âm thanh sinh động được lột tả:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.

Cảnh nhộn nhịp may áo rét, mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải thật nhộn nhịp sinh động trên sông lại càng xoáy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê nhà tê tái, nhớ đến cuộc sống bình yên nơi quê nhà càng mong nhớ quê da diết hơn. Trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ những người lính nơi quan ải. Không gian dài, rộng, rồi lại cao, sâu, thấp lên cao, cao xuống thấp, ẩn dụ thì đặc sắc, đối xứng thì chặt chẽ. Bài thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ nhưng hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói mùa thu, đồng thời hiện lên tâm trạng buồn, xót xa với nỗi nhớ quê hương.

Bài thơ ” Cảm xúc mùa thu” rất hay và ý nghĩa. Bài thơ là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc và như nhắc nhở chúng ta yêu quê hương mình và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com