Khái niệm phong trào công nhân? Giai đoạn sơ khai của phong trào công nhân? Phòng Trào công nhân quốc tế là gì? Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân quốc tế giai đoạn Quốc tế I (1864 – 1876)? Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân quốc tế giai đoạn Quốc tế II (1889 – 1914)? Lịch sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân quốc tế giai đoạn Quốc tế III (1919 – 1943)?
Chủ tịch Hồ Chí Minh tùng nói: “…Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”. Phong trào công nhân lan rộng ra cả thế giới tác động ảnh hưởng tới Việt Nam một cách sau sắc mạnh mẽ. Dưới đây là một số đặc điểm sự kiện tiêu biểu của phong trào công nhân thế giới.
1. Khái niệm phong trào công nhân:
Phong trào công nhân là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc cách mạng chống lại giai cấp tư sản, đây là lớp người “đào mồ chôn” giai cấp tư sản, họ vùng dậy giành lấy các quyền lợi mà họ đã có và chống lại sự áp bức bóc lột dã man do giai cấp tư sản tạo nên.
2. Giai đoạn sơ khai của phong trào công nhân:
Giai cấp công nhân hay còn gọi lài giai cấp vô sản trong tay họ không có tư liệu sản xuất chỉ có thê bán hàng hoá là sức lao động của mình cho tư bản nhằm lấy tiền đền bù. Nhận ra tính chất bóc lột sức lao động rất nhiều nên cần thiết có cuộc tranh đấu giành lấy sự công bằng trong kinh tế cũng như xã hội. Vì vậy nên những cuộc cách mạng công nhân làm chủ nổ ra ở các quốc gia thuộc địa. công nhân vẫn mang tính chất tự phát nhỏ lẻ. Chỉ đến khi có sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu một bước phát triển lịch sử trong phong trào công nhân quốc tế; vạch rõ con đường cách mạng vô sản, giúp hàng tỷ quần chúng lao động, hàng trăm quốc gia dân tộc rời bỏ thân phận chịu áp bức, bóc lột, nô lệ vươn tới địa vị người làm chủ, có cuộc sống no ấm, đầy đủ, hạnh phúc; biến chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành thực tiễn sinh động, tạo nên kỷ nguyên mới – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH; lãnh đạo, tập hợp giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động trên khắp hành tinh đứng dậy phấn đấu vì mục đích chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đúng như V.I.Lênin đã nói: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách, tinh thần của nó cho đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và chiến đấu của thế giới văn minh”.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản trong tác phẩm đã khẳng định rằng, giai cấp vô sản không thể cứu bản thân nếu không tự giải phóng toàn bộ xã hội. Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không biến thành chính đảng của giai cấp, Đảng được xây dựng và lãnh đạo dựa trên sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời có ý nghĩa quan trọng khi khẳng định sự phát triển trong lịch sử của chủ nghĩa Marx, với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa cộng sản khoa học; là tác phẩm tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những quan điểm căn bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử cao cả của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và Ăngghen nêu ra trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Đó là các nguyên tắc căn bản làm cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho toàn thể phong trào cộng sản và công nhân thế giới, nhiều vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng hiện nay; ngoài ra những tư tưởng ấy cũng có ý nghĩa sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng Đảng của Đảng ta nói riêng. Gần hai thế kỷ đã trôi qua, vượt lên nhiều thách thức của phòng trào cộng sản và công nhân quốc tế đang đặt ra những vấn đề mới cần được xử lý nhưng chủ nghĩa Marx không bao giờ lạc hậu, trái lại nó càng có ý nghĩa thời đại to lớn.
Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ sở phong trào công nhân. Đảng công nhân mới xuất hiện trong một số hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Những điều kiện trên được gắn chặt với tác động của các quy luật tự nhiên của xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng của một số quy luật thị trường. Trước khi có chế độ tư bản chủ nghĩa thì không có tiền đề nào về sự xuất hiện của đảng công nhân. Những quy luật tự nhiên của sự vận động xã hội đã tạo nên các lực lượng chủ quân để xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa với địa vị xã hội mới cao hơn nữa. Nhân tố quan trọng nhất trước hết là giai cấp công nhân có ý thức đã được tổ chức tốt, đầy đủ khả tín nhằm xoá bỏ chế độ tư bản và tạo dựng xã hội mới. V. Lênin viết: “Cũng là từ quy luật vận động của sự phát triển xã hội mới nên Mác đã nhận được tính chất tất yếu của quá trình chuyển biến từ chế độ tư bản chủ nghĩa sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Động lực chính trị và tinh thần của sự chuyển biến này, lực lượng vật chất cho quá trình chuyển biến này, là giai cấp công nhân, giai cấp đã được hình thành từ trong chủ nghĩa tư bản. Cuộc biểu tình của công nhân chống lại giai cấp tư bản, với hình thức khác nhau và nội dung đa dạng, đã dẫn thành cuộc cách mạng, đấu tranh lấy lại chính quyền từ tay giai cấp vô sản.
Giai cấp công nhân còn có thể hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình là người bới mồ chôn chủ nghĩa tư bản và tạo dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, nếu được lãnh đạo bởi bộ tham mưu cùng đội tiên phong của mình là đảng cộng sản. Trước khi có sự lãnh đạo của đảng cộng sản, ở thời kỳ đầu tiên của chủ nghĩa tư bản cả phong trào công nhân của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân đều mang tính chất nhỏ lẻ. Công nhân tự phát đấu tranh lập nên xã hội mới tại những nhà máy nhỏ. Họ tổ chức đình công và thành lập nên nhiều nghiệp đoàn, tuy nhiên phong trào vẫn rời rạc và ít có tính chính trị cao, bởi vì cuộc đấu tranh không được dẫn dắt theo lý luận cách mạng khoa học, mà được lãnh đạo bằng đảng cộng sản. Phong trào phản kháng của công nhân rời rạc về tổ chức và không có ý thức giác ngộ về giai cấp, nó chưa đi qua ngoài phạm vi của ý thức nghiệp đoàn, mà ý thức nghiệp đoàn vẫn bị phụ thuộc vào ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Vào thời điểm hiện tại, nhiều người có tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn đứng ngoài phong trào công nhân. Họ công kích chế độ tư bản chủ nghĩa vì quan điểm của họ không đúng, họ mới là lớp người có đầu óc, các nhà khoa học lý thuyết nhưng lại có tác dụng dẫn dắt xã hội phát triển. họ vẫn mơ ước chính bản thân những giai cấp áp bức và bóc lột tình nguyện làm xã hội chủ nghĩa. Họ nhìn giai cấp vô sản là nạn nhân của xã hội và rất lo sợ chủ nghĩa tư bản, công nghiệp ngày càng phát triển thì giai cấp vô sản sẽ khuôn dập. “Trái ngược với tâm trạng lo lắng về sự phát triển thì giai cấp vô sản, Mác và Ăng-ghen đặt mọi kỳ vọng của ông cho sự tiến lên không ngừng nghỉ của giai cấp công nhân. Vô sản càng nhiều, lực lượng của công nhân như là một giai cấp cách mạng rất mạnh mẽ thì chủ nghĩa xã hội sẽ trở nên vững chắc và hoàn toàn có thể đạt được “.”Chủ nghĩa Mác cũng là lý luận của cuộc đấu tranh bảo vệ giai cấp vô sản “.Lý luận này, giai cấp công nhân hoàn toàn có thể thực hiện được, khi có sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vũ trang bởi học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học. Giai cấp công nhân là cơ sở, là cốt lõi và là căn bản; đảng cộng sản là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân
3. Phòng Trào công nhân quốc tế là gì?
Phong trào công nhân quốc tế là cuộc đấu tranh chống lại giải cấp tư sản trong phạm vi khắp thế giới để giành lấy các quyền và lợi ích mà họ xứng đáng được hưởng nhưng bị giai cấp tư sản chèn ép, bóc lột một cách kiệt quệ.
4. Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân quốc tế giai đoạn Quốc tế I (1864 – 1876):
Ngày 28-9-1864, một cuộc gặp do Đại biểu công nhân Pháp và Anh chủ trì được tổ chức ở Luân Đôn nhằm lên án việc trấn áp cuộc nổi dậy ở Ba Lan năm 1863, đã quyết định hình thành tổ chức công nhân quốc tế với tên là Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I). Các Mác là người tổ chức Đại hội, được bầu làm Ban Chấp hành Trung ương; được phân công xây dựng Tuyên ngôn và Điều lệ. Tuyên ngôn kết thúc với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại ! ”.
5. Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân quốc tế giai đoạn Quốc tế II (1889 – 1914):
Năm 1889, phong trào công nhân quốc tế có nguy cơ bị chia rẽ nên Ăngghen đã quyết định tập hợp chữ ký và hưởng ứng lời đề nghị của Đại hội về một tổ chức quốc tế mới. Việc làm đó của Ăngghen đã được sự đồng thuận ủng hộ của nhiều tổ chức xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, đặc biệt là những người cộng sản nổi tiếng. Đại hội công nhân quốc tế họp ở Pa-ri (Pháp) ngày 14-7-1889 đã quyết định tổ chức để tạo nên một tổ chức quốc tế mới – Quốc tế xã hội chủ nghĩa (quốc tế II) . Dự Đại hội có 395 đại biểu thuộc 20 nước trên thế giới. Khẩu hiệu chính thức của Đại hội là ”Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại !”.
6. Lịch sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân quốc tế giai đoạn Quốc tế III (1919 – 1943):
Đại hội của Quốc tế III tổ chức ở Mátxcơva từ ngày 2 đến 6-3-1919, có 51 đại biểu thay mặt hơn 30 nước vào tham dự. Ngoài đại biểu phương Tây cũng có đại biểu một số nước phương Đông: Triều Tiên, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga Quốc tế III là tổ chức của người công nhân của tất cả những nước tư bản và phong kiến. Đại hội được tổ chức dưới quyền chỉ đạo của Lênin. Lênin khẳng định: “chỉ có nền cộng hoà và dân chủ công nhân, không có loại dân chủ thứ ba. Dân chủ công nhân là chế độ chính trị cao nhất, do đó nhiệm vụ của Quốc tế III là làm sao thiết lập nền cộng hoà vô sản “.
Tóm lại, sau một thời gian khủng hoảng, thoái trào sâu sắc, hiện nay phong trào cộng sản quốc tế đã có bước phục hồi nhất định, tuy phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách lớn. Mặc dù vậy, với những chuyển động tích cực như đã nêu trên, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng phong trào cộng sản quốc tế sẽ dần lấy lại vị thế của một lực lượng cách mạng thời đại. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội nhất định sẽ thôi thúc giai cấp công nhân và nhân dân lao động hướng theo con đường đi lên CNXH. Đó vừa là mục tiêu phấn đấu chung của phong trào cộng sản quốc tế, vừa là xu thế phát triển hợp quy luật lịch sử.