Quy định về Hôn nhân của người theo Đạo sẽ có những sự khác biệt nhất định so với bên Lương, nếu bạn có ý định kết mối lương duyên với người theo Đạo thì hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài viết dưới đây nhé
1. Những điều cần biết khi kết hôn với người theo Đạo:
Người xưa có câu “nhập gia tùy tục”. Khi kết hôn với một người theo đạo Thiên Chúa, bạn cũng nên tìm hiểu về tôn giáo của vợ/chồng mình. Thông thường, các em sẽ trải qua 4 bí tích: Rửa tội, Giải tội, Thánh Thể, Thêm sức.
Khi họ được sinh ra, cha mẹ của họ đã đưa họ đến nhà thờ để được rửa tội. Người có đạo thường học song song văn hóa tại trường, học giáo lý, lãnh nhận các bí tích giải tội và Thánh Thể. Sau đó các em sẽ học các lớp thêm sức và lãnh nhận bí tích thêm sức. Thời gian hoàn thành của các bí tích này thường rơi vào khoảng 6-7 năm. Nếu bạn muốn kết hôn với một người theo Đạo, bạn sẽ phải tham gia các lớp học để theo kịp họ. Thông thường phải mất ít nhất 6 năm.
1.1. Học giáo lý tân tòng và hôn nhân:
Tùy theo giáo xứ và chương trình học, thời gian có thể kéo dài từ 6-8 tháng.
Lớp giáo lý giúp tân tòng hiểu thêm về tôn giáo và chấp nhận nó với niềm tin trọn vẹn. Đồng thời, bạn cần ghi nhớ những lời cầu nguyện mà chủng viện yêu cầu.
Các dự tòng sẽ cử hành Thánh Lễ trọng thể và đồng thời lãnh nhận các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng lễ rửa tội và lễ thêm sức cần có cha mẹ đỡ đầu. Do đó, bạn cần nhờ người cùng giới tính và tôn giáo đứng ra bảo lãnh.
Và quan trọng nhất, khi đã chính thức được nhận làm con Thiên Chúa, bạn phải thực hiện điều răn “Mỗi năm phải xưng tội ít là một lần”.
1.2. Chuẩn bị bước vào thánh đường:
Trước khi kết hôn với một người theo Đạo, tin tức về cuộc hôn nhân sắp xảy ra của bạn sẽ được thông báo tại nhà thờ trong ba Thánh lễ Chúa nhật liên tiếp. Mục đích là những ai muốn phản đối sẽ phải báo cáo với cha xứ.
Tuy nhiên, nếu phải báo trước, thì phải trình giấy hôn phối và chứng chỉ giáo lý hôn nhân cho cha xứ.
Ngày nay, khi bạn kết hôn với một người theo đạo thiên chúa, đám cưới của bạn sẽ được tổ chức tại nhà thờ. Bạn cần nhờ hai người làm chứng cho cô dâu chú rể, đồng thời gửi nhẫn cưới cho cha để cha chúc phúc cho bạn.
Một trong những nghi thức hôn nhân thiêng liêng nhất trong hôn nhân Kitô giáo là bí tích Hôn Phối. Trước Chúa, đôi bên đã thề chung thủy với nhau, chăm sóc nhau dù gian khổ, bệnh tật, đồng thời nhận con từ tay Chúa.
2. Tại sao phải theo Đạo khi kết hôn:
Có thể hiểu Giáo Hội muốn con cái mình luôn được Chúa chúc phúc. Trong hôn nhân, giai đoạn quan trọng nhất của đời người, Giáo hội càng mong ước đôi nam nữ được Thiên Chúa chúc phúc và thánh hóa trong tình yêu và những dự định tương lai trong cuộc sống của cặp đôi.
Khi muốn kết hôn với một người không Công giáo, bạn phải gặp cha xứ, nhờ cha giúp để được phép của giám mục, cùng với một số thủ tục kèm theo tùy theo quy định của mỗi giáo phận. Giáo hội quy định những điều này chỉ vì đức tin của con cái mình, và không có ý định ép buộc bất cứ ai phải cải đạo trước khi kết hôn.
3. Những đối tượng nào không được kết hôn với người theo Đạo?
Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân: Theo Quyết định số 1275/2007/QĐ-BCA ngày 26 tháng 10 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân như sau: Khi có nhu cầu kết hôn, công an thường kiểm tra lý lịch ba đời xem họ và gia đình có theo đạo Công giáo hay không.
Đối tượng có thành viên gia đình là sĩ quan, công an theo quy định của pháp luật.
Đối với những người làm việc trong lĩnh vực đặc thù (an ninh quốc phòng, công an…) thì yêu cầu về hôn nhân càng khắt khe hơn. Theo Quyết định số 1275/2007/QĐ-BCA ngày 26 tháng 10 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân như sau:
Khi muốn lấy chồng công an, người ta thường kiểm tra lý lịch ba đời. Nếu trong gia đình bạn đã có một hoặc nhiều đảng viên thì không cần thẩm vấn lý lịch 2 lần (tùy theo cơ quan thẩm tra). Điều kiện cơ bản để không lấy vợ công an:
+ Gia đình hoặc bản thân bạn theo đạo thiên chúa, đạo tin lành, đạo thiên chúa…
+ Gia đình làm tay sai cho chế độ phong kiến, Ngụy quân, Ngụy quyền;
+ Bố mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành hình phạt tù;
+ Bố mẹ hoặc bản thân là người nước ngoài (thậm chí đã nhập quốc tịch)
+ Gia đình hoặc bản thân bạn là người gốc Hoa.
4. Giáo Hội có quy định gì về hôn nhân khác đạo:
Giáo Hội mong muốn con cái mình luôn được Chúa chúc lành. Trong hôn nhân, giai đoạn quan trọng nhất của đời người, Giáo hội càng mong ước đôi nam nữ được Thiên Chúa chúc phúc và thánh hóa trong tình yêu và những dự định tương lai trong cuộc sống. Ân sủng của Thiên Chúa được ban cho họ qua Bí Tích Hôn Phối, do chính đôi bạn cử hành, trước sự hiện diện của thừa tác viên Giáo Hội và hai nhân chứng. Để làm được điều này, cả hai phải là Kitô hữu, nghĩa là đã thuộc về gia đình Giáo hội. Do đó, hôn nhân giữa một người đã được rửa tội và một người chưa được rửa tội là vô hiệu đối với Giáo hội.
Điều 1086 §1 quy định: “Hôn nhân giữa một người đã được rửa tội trong Giáo hội Công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo hội đó và chưa rời bỏ Giáo hội đó bằng một hành vi dứt khoát với một người chưa được rửa tội.”
Tuy nhiên, trong trường hợp bên kia vì lý do nào đó vẫn nhất quyết không theo Công giáo, để không cản trở tình yêu chính đáng của cả hai, không gây khó khăn cho bên Công giáo và cũng để đảm bảo bên Công giáo không bị bỏ rơi đức tin của họ do cuộc hôn nhân khác giới này, Giáo hội vẫn chấp nhận cho họ kết hôn, với sự cho phép của Giám mục giáo phận. Tuy nhiên, Giám mục chỉ có thể ban phép này khi hội đủ các điều kiện quy định trong Điều 1125:
(1) Bên Công giáo phải tuyên bố sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và chân thành cam kết làm hết sức mình để tất cả trẻ em được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo.
Đầu tiên là nghĩa vụ giữ vững đức tin: bên Công giáo phải tuyên bố sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin. Những nguy cơ mất đức tin có thể là bỏ bê Kinh Mân Côi, tham dự Thánh lễ, tham dự và lãnh nhận các bí tích… Họ phải tiếp tục chu toàn bổn phận Kitô hữu cách tích cực và tránh những điều làm họ nguội lạnh và dẫn đến mất lòng tin cũng như thực hành những điều được dạy về Chúa và Giáo hội. Ngoài ra, đương đơn phải trao phó đức tin cho con cái bằng cách cam kết cố gắng hết sức để tất cả con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo. Ở đây, chúng tôi chú ý đến cụm từ “làm hết sức mình”. Có thể có những trường hợp không thể rửa tội cho trẻ em và giáo dục chúng trong Giáo hội Công giáo vì ảnh hưởng quá lớn của những người không Công giáo hoặc vì nguy cơ đổ vỡ hôn nhân vì điều này. Cũng có thể không phải “tất cả trẻ em” mà chỉ một hoặc một số trẻ em được rửa tội. Nhưng phía Công giáo phải nhìn nhận và cam kết cố gắng “làm hết sức mình”. Nghĩa là phải cố gắng thuyết phục, tìm mọi cách có thể… để tiến tới mục tiêu lớn lao đó. Còn thành công hay không lại là chuyện khác.
Thông thường, lời tuyên bố hoặc cam kết này phải được thực hiện trước linh mục (hoặc phó tế) bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Nếu bên Công giáo không hiểu hoặc không ý thức được điều mình đã hứa hoặc cảm thấy không muốn hứa thì có quyền từ chối viết thư giới thiệu để xin phép Giám mục.
Rõ ràng quy định này của Giáo hội nhằm bảo vệ đức tin của giáo dân và con cái của họ. Giáo hội không muốn mất bất kỳ người con nào của mình, nhưng Giáo hội không đòi hỏi quá nhiều gây nguy hiểm nghiêm trọng cho hạnh phúc của các Kitô hữu.
(2) Bên Công giáo phải thông báo kịp thời cho bên không Công giáo về những gì bên Công giáo phải đảm nhận để bên Công giáo nhận thức đầy đủ về các cam kết và nghĩa vụ của bên Công giáo.
“Sẽ được thông báo ngay” không chỉ định thời gian cụ thể và chính xác. Tuy nhiên, được hiểu là diễn ra trước thời điểm kết hôn để bên không Công giáo biết về những điều mà bên Công giáo phải cam kết và thực hiện trong bổn phận, nghĩa vụ của mình. Mục đích để hai bên hiểu và tạo điều kiện cho nhau, hoặc ít nhất là để người Công giáo bên ngoài không can thiệp vào. Hành động “thông báo” ở đây tất nhiên là cố gắng lấy sự đồng ý của những người ngoài Công giáo, nhưng có vẻ như Giáo hội chỉ cần yêu cầu rằng “họ biết” là đủ.
(3) Cả hai bên phải được giáo dục về các mục đích và đặc điểm thiết yếu của hôn nhân, không bên nào bị loại trừ.
Đòi hỏi này hẳn có liên quan gì đó đến chương trình đào tạo mà giáo phận (hoặc giáo xứ) phải có cho các cặp chuẩn bị kết hôn. Ít nhất là để bên Công giáo hiểu và chuẩn bị tốt để sống cuộc sống vợ chồng viên mãn. Bên không Công giáo cũng phải được “hướng dẫn”, nghĩa là tham dự các buổi này để hiểu “mục đích và đặc điểm chính của hôn nhân”. Người này không cần tin, nhưng phải biết rằng yêu cầu của bên Công giáo là tôn trọng và muốn kết hôn với người Công giáo, đồng thời cũng với mong muốn giúp đỡ khi hiểu biết.
Sau đó là xây dựng gia đình có vợ có chồng, con cái theo văn hóa Thiên chúa giáo.
Như vậy, khi muốn kết hôn với người ngoài Công giáo, bạn phải gặp cha xứ, nhờ ngài giúp đỡ, xin phép giám mục và một số thủ tục kèm theo tùy theo quy định của mỗi giáo phận. Giáo hội quy định những điều này chỉ vì đức tin của con cái mình, và không có ý định ép buộc bất cứ ai phải cải đạo trước khi kết hôn.