Có những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện nhưng vẫn được loại trừ trách nhiệm hình sự. Vậy đó là những trường hợp nào? Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày về 07 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Chương IV Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định 07 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, bao gồm:
1. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Phòng vệ chính đáng
– Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của đơn vị, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
– Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn của Bộ luật này.
4. Tình thế cấp thiết
– Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây tổn hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của đơn vị, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một tổn hại nhỏ hơn tổn hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây tổn hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
– Trong trường hợp tổn hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây tổn hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
5. Gây tổn hại trong khi bắt giữ người phạm tội
– Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây tổn hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
– Trường hợp gây tổn hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây tổn hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
– Hành vi gây ra tổn hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng trọn vẹn biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
– Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng trọn vẹn biện pháp phòng ngừa mà gây tổn hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
– Người thực hiện hành vi gây tổn hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện trọn vẹn quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
– Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp sau:
+ Phạm tội “Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược” trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
+ Phạm tội “Chống loài người” trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
+ Phạm tội “Tội phạm chiến tranh” trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên.
Trên đây là toàn bộ nội dung về 07 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do Luật LVN Group gửi tới. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp ích cho quý bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu, nếu quý bạn đọc còn có câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website hoặc Hotline để được hỗ trợ trả lời.