Bình đẳng giới trong giáo dục mới nhất 2023

Bất bình đẳng giới là một sự kiện tiêu cực của xã hội mà chúng ta cần phải đấu tranh để loại bỏ chúng. Vậy, bất bình đẳng giới là gì, nguyên nhân nào dẫn đến sự kiện này, hệ quả của chúng và bất bình đẳng giới trong giáo dục sẽ được giới thiệu trong nội dung trình bày dưới đây. Hãy cùng nghiên cứu !.

Bình đẳng giới trong giáo dục mới nhất 2023

1. Bất bình đẳng giới là gì?

Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực. Sự phân biệt đối xử giữa nam giới và phụ nữ, tư tưởng trọng nam khinh nữ có thể xem như yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Vì thế mà hiện nay bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Luật Bình đẳng giới đề ra mục tiêu tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực nhưng trên thực tiễn vẫn tồn tại sự bất bình đẳng.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

2. Bất bình đẳng giới trong giáo dục

Những năm qua chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước đã thực sự đi vào cuộc sống, những thành tích của chúng ta đã đạt được trong lĩnh vực giáo dục là  rất đáng khích lệ và mang ý nghĩa kinh tế – xã hội sâu sắc. Hiện nay tỷ lệ biết chữ cấp quốc gia đạt gần 90%, điều đáng nói hơn là sự khác biệt về giới ở bậc tiểu học đang được thu hẹp dần, chênh lệch cơ cấu nam – nữ đến trường ở từng cấp học có xu hướng được rút ngắn qua các năm. Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là bước đầu,  chưa thực sự bền vững, nhiều thách thức lớn đã và đang đặt ra cho công tác giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đó là: Trong tổng số người mù chữ, phụ nữ vẫn chiếm hơn 2/3 so với nam giới (Phụ nữ 69%; nam giới 31%) (Điều tra dân số và nhà ở, 1999). Số liệu cũng cho thấy 12% em gái trong độ tuổi 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đi học, trong khi đó tỷ lệ này chỉ là 7,5% đối với các em trai. Đối với các cấp học càng cao thì khoảng cách giới càng thể hiện sâu sắc hơn. Đặc biệt đối với phụ nữ vùng nông thôn, vùng sâu và vùng xa thì vấn đề này lại càng trở nên cấp bách hơn. Điều kiện để trẻ em gái tiếp cận với giáo dục đối với các vùng “nhạy cảm” này đang là vấn đề cần có lời trả lời thoả đáng. Tuyệt đại đa số các sự kiện bỏ học chủ yếu tập trung vào nhóm trẻ em gái và thông thường trong các gia đình nghèo thì các em gái cơ hội đến với trường học thấp hơn nhiều lần so với các em trai.

   Chúng ta có thể lý giải sự khác biệt giới đối với vấn đề này là do: thông thường nhóm gia đình nghèo và nhóm gia đình người dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế thấp, một mặt do cơ chế thị trường đã làm tăng chi phí giáo dục, mức chi tiêu cho giáo dục hầu như tăng gấp đôi ở mọi cấp học. Bên cạnh đó ở những vùng này điều kiện kinh tế còn khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém, địa hình các vùng miền núi bị chia cắt, trường học rất xa so với nơi ở nên việc đi lại học tập trở nên hết sức khó khăn, đặc biệt là đối với trẻ em gái. Mặt khác trong nhóm này còn mang khá nặng tư tưởng định kiến giới “Con gái không cần học cao” nên đã ảnh hưởng tới việc quyết định lựa chọn đầu tư giáo dục cho con cái. Thực tế cho thấy nhóm này có sự thiên vị đối với con trai đối với các quyết định đầu tư giáo dục. Họ quan niệm rằng con trai sẽ có triển vọng và có được việc làm tốt hơn con gái khi có cùng trình độ học vấn, do đó càng ở cấp học càng cao thì sự vắng bóng của trẻ em gái càng ít đi cũng là điều dễ hiểu. Chính sự thiên lệch trong hướng đầu tư giáo dục cho con cái của nhiều hộ gia đình dẫn đến thực trạng trẻ em gái là những người chịu nhiều thiệt thòi trong cơ hội đến trường, cơ hội tìm kiếm việc làm và cơ hội hoà nhập xã hội. Chính điều này đã làm gia tăng thêm khoảng cách bất bình đẳng giới trong cơ hội thụ hưởng các thành quả giáo dục của giới nam và giới nữ và là mối nguy cơ khiến sự chênh lệch về trình độ giáo dục của nam và nữ có xu hướng ngày càng tăng.

Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công cuộc CNH, HĐH, đang mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với chúng ta. Quy mô và tính chất lao động ngày càng phát triển đòi hỏi lực lượng lao động qua đào tạo có khả năng đáp ứng được thị trường lao động. Vì vậy nếu một trong hai nam hoặc nữ không có cơ hội để tiếp cận với quá trình đào tạo kỹ năng lao động nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm, xoá đói giám nghèo và tăng trưởng bền vững của quốc gia.

Sự bất bình đẳng giới trong giáo dục hiện nay sẽ gây cản trở không nhỏ cho phụ nữ trong việc tiếp cận các cơ hội việc làm đòi hỏi có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật lành nghề và lẽ dĩ nhiên là thu nhập cũng cao hơn rất nhiều. Số liệu điều tra (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2000) cho thấy chỉ có 2% tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn ở bậc đại học và cao đẳng chiếm 2% trên tổng số dân và phụ nữ trong độ tuổi lao động, chỉ có khoảng 6% có bằng công nhân kỹ thuật. Trong khi đó các chỉ số này ở nam giới là khoảng 10% và 3%. Thực tế đó cho thấy, với tiến bộ của khoa học và công nghệ như hiện nay, nếu phụ nữ không được được đào tạo và nâng cao trình độ thì khó có thể thích ứng với điều kiện công tác và  tăng hiệu quả lao động. Những vấn đề này nếu không có những biện pháp và chính sách thích hợp kịp thời, có thể sẽ làm sâu sắc thêm tình trạng yếu kém và tụt hậu về trình độ học vấn cũng như trình độ đào tạo nghề của phụ nữ và là mối nguy cơ khiến sự chênh lệch về trình độ giáo dục của nam và nữ có xu hướng tăng lên. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, nhiều nhóm ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và thu nhập cao, thì việc phụ nữ bị tụt hậu quá xa sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự thua kém của họ trong tìm kiếm việc làm, hạn chế khả năng đóng góp cũng như thụ hưởng trong quá trình lao động. Sự chênh lệch về trình độ học vấn và chuyên môn trong bộ phận lao động nữ cũng dẫn đến sự phân hoá trong thu nhập. Thực tế cho thấy sự yếu kém, non nớt về tay nghề và trình độ học vấn thì thu nhập cũng thấp. Khoảng cách tiền công của phụ nữ có học vấn ở bậc tiểu học so với phụ nữ có học vấn ở bậc đại học và cao đẳng trở lên là rất xa nhau; đặc biệt là chế độ phụ cấp thì khoảng cách này thấp hơn gấp 6 lần (58,42/345,56).

3. Nguyên nhân của bất bình đẳng giới là gì?

Bất bình đẳng giới được xuất phát từ thời phong kiến xa xưa truyền lại cho đến thời bây giờ. Ông bà và cha mẹ hay truyền dạy con cháu những nguyên mẫu về quan niệm, hành vi và truyền thống thích hợp đối với mỗi giới và kỳ vọng của xã hội đối với nam và nữ.

Nữ giới luôn bị gán với tính cách dịu dàng; là người mẹ người vợ, người con dâu, bà nội trợ phụ thuộc vào kinh tế của người chồng. Từ đó nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tâm gương về đạo đức, lối sống; có quyền quyết định mọi việc trong gia đình, uỷ quyền cho gia đình trong các mối quan hệ xã hội và cộng đồng.

Đây thực chất là những đặc tính được xã hội gán cho hoặc mong đợi của nam lẫn nữ. Chính những quan niệm này đã tạo nên bất bình đẳng giới trong xã hội từ xưa đến nay. Người chồng luôn nghĩ phụ nữ thấp kém hơn mình, là tài sản của mình; dẫn đến tình trạng phụ nữ không được tôn trọng. Từ đó người đàn ông có tính gia trưởng và xu hướng bạo lực trong gia đình ngày càng tăng.

Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực. Thực tế cả đàn ông và phụ nữ đều sinh ra và lớn lên, họ cần được bình đẳng về nhiều khía cạnh. Không có sự khác biệt gì giữa nam và nữ ở góc độ giới, nếu có chăng thì chỉ là sự khác biệt về giới tính.

3. Bất bình đẳng giới biểu hiện thế nào trong cuộc sống hằng ngày (gia đình, xã hội)?

Các thể chế xã hội, tập tục, phong cửa hàng đã tác động rất lớn đến những người làm giáo dục. Ngay cả chúng ta không công khai phân biệt thì những định kiến vẫn quy chúng ta về những vai trò thích theo giới. Nhiều người trình độ học vấn thấp, gia trưởng, bảo thủ cũng là nguyên nhân gây bất bình đẳng giới. Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng này.

Nguyên nhân bất bình đẳng giới trong giáo dục là do các thể chế xã hội, các chuẩn mực, tập cửa hàng, luật lệ của xã hội đã tác động rất lớn tới những người làm trong ngành giáo dục. Chính những điều đó đã quy định khuyến khích được không khuyến khích các định kiến về giới tính.

Ngay cả khi chúng ta không công khai phân biệt thì những định kiến, chuẩn mực đó vẫn quy định chúng ta về những vai trò thích hợp theo giới. Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục. Tình trạng đói nghèo của các gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ cũng là nguyên nhân.

4. Hệ quả của bất bình đẳng giới nghiêm trọng đến mức nào?

Hệ quả của việc bất bình đẳng giới để lại rất nghiệm trọng về mọi mặt: kinh tế, chính trị – xã hội và gia đình.

Về kinh tế: Việc chênh lệch thu nhập trong cùng một vị trí đảm nhiệm vẫn còn hiện hữu. Cơ hội để phụ nữ tiếp cận những ngành nghề có thu nhập cao vẫn thấp hơn nam giới. Khi bị cắt giảm nhân sự, nữ là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn.

Về chính trị – xã hội: Tỷ lệ nữ giới làm công tác quản lý hiện đã được cải thiện những vẫn còn thấp các vị trí quản lý.

Trong gia đình: Phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình. Mặt khác, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia đình, mất cân bằng giới tính, nạn nhân của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.

Bất bình đẳng giới là một việc đáng bị nên án, hãy bình đẳng giới để mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hy vọng nội dung trình bày trên đây giúp bạn hiểu rõ hơn về Nguyên nhân bất bình đẳng giới, cũng như biểu hiện và hậu quả của nó, từ đó có cách nghĩ khác về bình đẳng giới trong xã hội.

Trên đây là một số thông tin về nội dung bất bình đẳng giới trong giáo dục. Nếu các bạn vẫn còn câu hỏi liên quan đến vấn đề trên, hãy liên hệ với LVN Group để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com