Thế kỷ 21 được gọi là “Thế kỷ của biển và đại dương”. Với vị trí, tiềm năng của biển càng ngày càng được coi trọng, mọi quốc gia đều xác định đây là định hướng chiến lược phát triển chủ yếu, gắn bó mật thiết với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh cũng như đời sống người dân của từng quốc gia. Cùng với sự phát triển của Luật biển quốc tế và xu hướng tiến ra biển của các nước trên thế giới nên ngày càng có nhiều đường biên giới xuất hiện trên biển. Do vậy, ta có thể khẳng định rằng: Biển cả là môi trường đồng nhất, là tài sản chung của nhân loại, đòi hỏi phải có một sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia nhằm giữ gìn biển và môi trường biển trong lành nên việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển là tất yếu.
Các văn bản pháp luật quốc tế bảo vệ môi trường
1. Bảo vệ môi trường là gì?
Theo khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2020 thì hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường;
Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. 07 nguyên tắc bảo vệ môi trường
07 nguyên tắc bảo vệ môi trường được quy định tại Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường 2020 như sau:
(1) Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi đơn vị, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân.
(2) Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Hoạt động bảo vệ môi trường phải gắn kết với phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên và được xem xét, đánh giá trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển.
(3) Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với an sinh xã hội, quyền trẻ em, bình đẳng giới, bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành.
(4) Hoạt động bảo vệ môi trường phải được tiến hành thường xuyên, công khai, minh bạch; ưu tiên dự báo, phòng ngừa ô nhiễm, sự cố, suy thoái môi trường, quản lý rủi ro về môi trường, giảm thiểu phát sinh chất thải, tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải để khai thác giá trị tài nguyên của chất thải.
(5) Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử, cơ chế thị trường, trình độ phát triển kinh tế – xã hội; thúc đẩy phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
(6) Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường tổn hại, khắc phục, xử lý và chịu trách nhiệm khác theo hướng dẫn của pháp luật.
(7) Hoạt động bảo vệ môi trường bảo đảm không gây phương hại chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia, gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
3. Các văn bản pháp luật quốc tế vệ môi trường
Việt Nam đã ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế về môi trường, trong đó Bộ Tài nguyên và Môi trường là đơn vị được giao nhiệm vụ đầu mối quốc gia thực hiện các điều ước quốc tế cần thiết. Một số điều ước cần thiết mà Việt Nam ký kết được kể đến:
– Công ước đa dạng sinh học và Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học. Công ước quốc tế về đa dạng sinh học được ký kết vào năm 1992, có hiệu lực thi hành từ ngày 29/11/1993. Nghị định thư Cartagena được thông qua vào tháng 01/2000 tại Montreal, Canada với sự nhất trí của 135 quốc gia có mặt. Đến tháng 06/2003 có 103 quốc gia ký kết.
– Công ước các vùng đất ngập nước có tầm cần thiết quốc tế đặc biệt, như nơi cư trú của các loài chim nước (Công ước Ramstar) thông qua năm 1971, Việt Nam tham gia vào ngày 20/9/1989, phê chuẩn năm 1991.
– Công ước Basel về Kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng (Công ước Basel) thông qua năm 1989. Việt Nam tham gia ngày 13/3/1995.
– Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (Công ước POPs), Việt Nam tham gia ngày 23/5/2001.
– Công ước Vienna về bảo vệ tầng Ozon (1985) và Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng Ozon 1987.
– Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (1992) và Nghị định thư Kyoto về cơ thế phát triển sạch (1997).
4. Một số tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trường
Chương Trình Môi Trường Liên Hợp Quốc (United Nations Environment Programme ) được thành lập ngày 15/12/1972 theo nghị quyết 1997 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc. UNEP chính là nơi điều phối các hoạt động môi trường của Liên hợp quốc và ngoài ra còn giúp các quốc gia đang phát triển đưa ra các chính sách về môi trường và thực hiện chúng.
Hội đồng Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change – IPCC) tổ chức này được thành lập bởi Tổ chức Khi tượng Thế giới và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc vào năm 1988. Nhiệm vụ chủ yếu của hội đồng là đưa ra những đánh giá khoa học chi tiết về những nguy cơ hiện hành do những biến đối khí hậu gây ra bởi các hoạt động của con người.
Quỹ Môi Trường Toàn Cầu ( Global Environment Facility – GEF) được thành lập năm 1991, là một tổ chức tài chính độc lập và trợ cấp cho các nước đang phát triển về những dự án liên quan đến biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, suy thoái đất, các chất ô nhiễm hữu cơ lâu bền và tầng ozone.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến Các văn bản pháp luật quốc tế vệ môi trường mà LVN Group đã chia sẻ đến quý bạn đọc. Hy vọng rằng với những thông tin trên, quý bạn đọc có thể áp dụng được trong cuộc sống và công việc. Mọi thông tin câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi; LVN Group với đội ngũ chuyên viên với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề sẽ hỗ trợ quý bạn đọc một cách chuyên nghiệp và nhanh chóng nhất. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.