Di sản văn hóa tinh thần và người dân - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Di sản văn hóa tinh thần và người dân

Di sản văn hóa tinh thần và người dân

Di sản là một trong những khái niệm được sử dụng rất nhiều trong hoạt động du lịch. Mỗi di sản đều có tính chất cũng như đặc điểm, giá trị khác nhau. Ở Việt Nam nước ta hiện nay có rất nhiều di sản được công nhận là di sản thế giới. Vậy di sản thế giới được hiểu thế nào cũng nhu các di sản thế nào được công nhận là di sản thế giới cũng như Di sản tinh thần dân tộc là gì Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày sau đây.

Di sản văn hóa tinh thần và người dân

1. Thế nào là di sản văn hoá?

Theo Điều 1 Luật Di sản văn hoá 2001 thì di sảnvăn hoá là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Di sản văn hoá tiếng Anh là gì?

Di sản văn hóa tiếng Anh là cultural heritage, phiên âm ˈkʌl.tʃər.əl ˈher.ɪ.tɪdʒ. Di sản văn hóa là các hiện vật có giá trị lịch sử được kế thừa từ thế hệ trước và duy trì đến nay.

Di sản văn hóa vừa có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, vừa thể hiện được nét truyền thống, công sức và kinh nghiệm sống của các dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Góp phần làm phát triển kho tàng di sản văn hóa thế giới.

3. Phân loại đối với di sản văn hoá

Theo Điều 1 Luật Di sản văn hoá 2001 và Điều 2 Nghị định 98/2010/NĐ-CP thì di sản văn hoá gồm 02 loại như sau:

3.1. Di sản văn hoá phi vật thể

– Theo khoản 1 Điều 4 Luật Di sản văn hoá 2001 (sửa đổi 2009) thì di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,

Thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các cách thức khác.

– Di sản văn hoá phi vật thể bao gồm:

+ Tiếng nói, chữ viết;

+ Ngữ văn dân gian;

+ Nghệ thuật trình diễn dân gian;

+ Tập cửa hàng xã hội và tín ngưỡng;

+ Lễ hội truyền thống;

+ Nghề thủ công truyền thống;

+ Tri thức dân gian.

3.2. Di sản văn hoá vật thể

– Theo khoản 2 Điều 4 Luật Di sản văn hoá 2001 thì di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

– Di sản văn hoá vật thể bao gồm:

+ Di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh;

+ Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

4. Mục đích sử dụng của di sản văn hoá

Theo Điều 12 Luật Di sản văn hoá 2001 thì di sản văn hoá được sử dụng nhằm mục đích:

– Phát huy giá trị di sản văn hoá vì lợi ích của toàn xã hội;

– Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;

– Góp phần sáng tạo những giá trị văn hoá mới, làm giàu kho tàng di sản văn hoá Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế.

5. Những hành vi bị nghiêm cấm đối với di sản văn hoá

Theo Điều 13 Luật Di sản văn hoá 2001 (sửa đổi 2009) quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với di sản văn hoá như sau:

– Chiếm đoạt, làm sai lệch di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh;

– Huỷ hoại hoặc gây nguy cơ huỷ hoại di sản văn hoá;

– Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh;

– Mua bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia có nguồn gốc bất hợp pháp; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.

–  Lợi dụng việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để trục lợi, hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện những hành vi khác trái pháp luật.

6. Di sản văn hóa tinh thần và người dân

Chúng tôi hiểu di sản văn hóa theo nghĩa rộng của nó. Có những di sản đã được UNESCO và quốc gia ghi nhận nhưng rất nhiều di sản vẫn tồn tại trong cuộc sống Nhân dân khắp mọi nơi ở 54 tộc người ở Việt Nam. Chủ nhân của di sản văn hóa chính là những người đã sáng tạo và thực hành di sản đó trong trường kỳ lịch sử thuộc các cộng đồng khác nhau, trong đó có cộng đồng quốc gia – dân tộc. Bất cứ di sản có giá trị nào cũng cần được thấu hiểu và thẩm định giá trị, được bảo tồn, được phát huy phát triển và được quảng bá trên toàn thế giới. Đó là trách nhiệm của từng công dân và cũng là trách nhiệm của thiết chế chính trị quốc gia.
Cũng cần nói rằng, từ giữa thế kỷ XX, với Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 do lãnh tụ cách mạng Trường Chinh soạn thảo và trình bày, sự nghiệp văn hóa Việt Nam đã vận động song hành với các mục tiêu cách mạng và đạt được nhiều kết quả mà không phải bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng tương sánh.
Trong quá trình đó, dù ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, chúng ta đi vào hai cuộc chiến tranh ác liệt để giành độc lập thì việc phát huy di sản văn hóa dân tộc truyền thống luôn luôn được tiến hành và từng bước đạt được nhiều giá trị. Tất cả các loại hình nghệ thuật, từ ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp đã chuyển hướng, mang phong cách, âm hưởng truyền thống và dân gian các vùng miền, các tộc người một cách rõ rệt. Những phương thức sinh hoạt văn hóa tập thể mới hình thành, những cách thức trình diễn công cộng mới được tổ chức, những tác phẩm phong cách dân gian được sáng tạo. Tất cả hướng tới con người bình dị, con người công dân mới đang đi vào cuộc kháng chiến. Khi việc nghiên cứu và việc bảo tồn gặp hoàn cảnh khó khăn thì việc ứng dụng thực tiễn lại đã đi trước một bước và đạt nhiều giá trị cao đẹp. Âm nhạc, văn chương, sân khấu, hội họa, vũ đạo, điêu khắc… đều thấm đẫm một tinh thần “dân tộc hóa, đại chúng hóa và hiện đại hóa”.
Sau chiến thắng mùa Xuân 1975, đối diện với thời hậu chiến khổ cực 20 năm ròng rã, nhưng tinh thần và đường lối văn hóa vẫn được tiếp tục xu hướng vận động của văn hóa cách mạng, tiến lên xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các thiết chế văn hóa từ nghiên cứu, đào tạo, quản lý, sáng tạo phát triển rộng khắp từ T.Ư đến địa phương. Chúng ta có một thiết chế vận hành văn hóa rộng rãi trong toàn bộ xã hội.
Sau sự vận động đổi mới từ 1986 và đặc biệt là sự phát triển của kinh tế thị trường, của truyền thông mạng internet, không những các bản sắc văn hóa truyền thống bị phai mờ mà nó càng có cơ hội phục hồi mạnh mẽ. Cuộc sống thời bình và sự phát triển kinh tế – xã hội đã thúc đẩy di sản văn hóa truyền thống bảo lưu và phát triển mạnh mẽ. Công trình kiến trúc tín ngưỡng, lễ hội, trình diễn dân gian được phục hồi khắp mọi miền đất nước. Nhà nước và Nhân dân đã đồng tâm trong cuộc bảo lưu và phát triển các truyền thống tinh thần quý báu đó.
Sự đánh mất bản sắc văn hóa, sự “xô dạt văn hóa” là vấn đề toàn nhân loại, không chỉ ở các nước kinh tế thấp mà ngay cả các nước phát triển hàng đầu thế giới. Đặt trong tổng thể đó, chúng ta thấy được thành tựu của Việt Nam, ở cấp độ một quốc gia là thật sự đáng ghi nhận. Với những di sản văn hóa tinh thần đậm chất dân gian đã được ghi nhận, chủ yếu đó là những di sản mang tính chất diễn xướng tổng hợp. Việc nghiên cứu, bảo tồn, phát huy, quảng bá nó là công việc cấp thiết và luôn luôn gặp những thử thách cần phải vượt qua.
Trong quá trình điền dã thực địa, chúng tôi thấy các thiết chế chính trị xã hội có một vai trò quyết định trong đối với việc giữ gìn, bảo lưu các di sản. Từ việc nhỏ như tổ chức sinh hoạt các cách thức câu lạc bộ, các cuộc thi trình diễn thường niên, các hội diễn, các lễ hội truyền thống, việc xây dựng các không gian sinh hoạt cho di sản… đều có sự trực tiếp tham gia của thiết chế văn hóa chính thống. Đặc biệt là địa bàn cấp huyện với phòng Văn hóa và Trung tâm văn hóa Thể thao huyện. Một lực lượng được đào tạo chuyên sâu về văn hóa nghệ thuật ở trình độ cao đẳng, đại học trở lên đã rải đều trên khắp địa bàn cấp huyện trong cả nước mà một trong những trọng tâm hoạt động của họ là bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống.
Khi nghiên cứu sinh hoạt cụ thể của từng câu lạc bộ văn hóa truyền thống, chúng tôi thấy ba nhu cầu cấp bách thường trực đó là: Nhu cầu về kinh phí hoạt động, nhu cầu về sáng tạo bài bản và nhu câu giao lưu quảng bá di sản. Đáp ứng nhu cầu kinh phí, đa số là dựa trên sự tài trợ của các nhà hảo tâm nhưng không vững bền. Nhà nước thường ủng hộ bằng vật chất như nhạc cụ, trang âm và một ít kinh phí khi có cuộc thi hoặc hội diễn. Trong truyền thống ngày xưa, các hoạt động, ngoài tiền thưởng khi trình diễn, thường người ta dùng ruộng để cấp tài sản cho các giáo phường. Đó là một kinh nghiệm khôn ngoan đã được thử thách vì tính hiệu quả lâu bền của nó. Bây giờ không có ruộng nhưng ắt sẽ có những cách thức khác có hiệu quả hơn.
Đáp ứng nhu cầu giao lưu quảng bá, ngoài việc các câu lạc bộ tự giao lưu với nhau thì rất cần những sáng tạo của thiết chế văn hóa tạo điều kiện cho việc giao lưu có kế hoạch và thiết thực hơn, thực hành nghĩa vụ quảng bá mà UNESCO đã quy định. Những kế hoạch này, Nhân dân rất mong đợi nhưng các thiết chế văn hóa ít tính đến.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến câu hỏi Di sản tinh thần dân tộc là gì? mà LVN Group đã chia sẻ đến quý bạn đọc. Hy vọng rằng với những thông tin trên, quý bạn đọc có thể áp dụng được trong cuộc sống và công việc. Mọi thông tin câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi; LVN Group với đội ngũ chuyên viên với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề sẽ hỗ trợ quý bạn đọc một cách chuyên nghiệp và nhanh chóng nhất. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com