Hiến pháp năm 2013 là một cột mốc mới đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của nền lập hiến Việt Nam về tư tưởng dân chủ; tổ chức, kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo vệ các quyền con người, quyền công dân và kỹ thuật lập hiến. Hãy cùng LVN Group nghiên cứu quy định Điều 103 Hiến pháp 2013 qua nội dung trình bày dưới đây!
Điều 103.
1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm đơn vị, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
3. Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.
4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.
1. Nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân là gì?
Để bảo đảm Tòa án thực hiện được nhiệm vụ thi hành công lý mà hiến pháp đã giao, trong quá trình hoạt động Tòa án phải tuân thủ nhiều nguyên tắc, quy định chặt chẽ về mặt thủ tục. Có những nguyên tắc mang tính bao trùm toàn bộ hoạt động của Tòa án, có những nguyên tắc chi phối việc thực hiện một loại công việc cụ thể của Tòa án. Các nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân được hiểu là các quan điểm, tư tưởng chủ đạo, đồng thời cũng là các quy tắc pháp lý cần thiết nhất và bao trùm toàn bộ hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, được quy định trong hiến pháp. Hiện có 7 nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân, được quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
2. Đặc điểm của nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân
Các nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân có những đặc điểm sau.
Thứ nhất, các nguyên tắc này không chỉ là các quan điểm, tư tưởng chủ đạo mà còn là những quy tắc pháp lý với những nội dung cụ thể mang tính quy phạm ràng buộc Tòa án khi tiến hành các hoạt động của mình (nội dung của các nguyên tắc được trình bày ở phần sau).
Thứ hai, đây là những quy tắc pháp lý cần thiết nhất, bao trùm toàn bộ hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Từng Tòa án nhân dân phải tuân thủ các quy tắc này trong quá trình hoạt động của từng Tòa án, từng hội đồng xét xử, từng thẩm phán, hội thẩm khi thụ lý vụ án. Như trên đã đề cập, Tòa án có thẩm quyền xét xử các loại vụ việc khác nhau như hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính. Tương ứng, khi xét xử Tòa án tuân thủ các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, dân sự và hành chính. Mỗi loại tố tụng lại có những nguyên tắc riêng mà Tòa án phải tuân thủ Tuy nhiên, các nguyên tắc hiến định đề cập ở đây là những nguyên tắc nền tảng nhất, áp dụng chung cho mọi hoạt động của Tòa án. Vì vậy, khi Tòa án xét xử theo tố tụng hình sự, dân sự hay hành chính đều phải tuân thủ các nguyên tắc này. Các nguyên tắc và các quy định cụ thể trong các cách thức tố tụng trên, bao gồm cả các nguyên tắc đặc thù trong từng loại hình tố tụng đều phải phù hợp và có khi là sự cụ thể hóa của các nguyên tắc hiến định hoạt động của Tòa án.
Thứ ba, chính vì là những quy tắc pháp lý cần thiết và bao trùm nhất nên các nguyên tắc này được quy định trong hiến pháp, đạo luật cơ bản và có giá trị pháp lý tối cao trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đặc điểm này là về cách thức, song rất có ý nghĩa bởi nó khẳng định tầm cần thiết của các nguyên tắc đối với hoạt động của Tòa án nói riêng cũng như bộ máy nhà nước nói chung. Một khi đã được quy định trong hiến pháp thì các nguyên tắc cũng mang giá trị pháp lý tối cao như chính bản thân hiến pháp.
3. Nguyên tắc Độc lập tư pháp/Độc lập xét xử
“Độc lập tư pháp” là nguyên tắc cần thiết nhất trong hoạt động của hệ thống Tòa án trong nhà nước pháp quyền hiện đại. Rất nhiều quốc gia đã quy định nguyên tắc này trong hiến pháp của mình. Thậm chí đã có câu ví von rằng nguyên tắc này là “viên ngọc trên vương miện nhà nước pháp quyền”.
Nguyên tắc “độc lập tư pháp” ở Việt Nam được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, với nội dung: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm đơn vị, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Vì vậy, nguyên tắc “độc lập tư pháp” ở Việt Nam được hiểu là sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm trong quá trình thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Thẩm phán và hội thẩm độc lập có nghĩa là thẩm phán và hội thẩm giải quyết các tranh chấp chỉ dựa trên quy định của pháp luật và niềm tin của mình vào pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí hoặc sự chi phối của bất kì chủ thể nào khác. Trong thực tiễn, hoạt động xét xử của Tòa án thường được thực hiện bởi các hội đồng xét xử với thành phần bao gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân (đối với cấp sơ thẩm) hoặc các thẩm phán (đối với các cấp xét xử khác). Vì vậy, nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cũng có thể gọi là nguyên tắc “Tòa án độc lập”.
Nguyên tắc độc lập tư pháp được nhìn nhận trên hai phương diện. Thứ nhất, thẩm phán và hội thẩm độc lập với nhau khi thực hiện chức năng xét xử. Thẩm phán không được gây ảnh hưởng hoặc tác động để hội thẩm xử theo ý mình và ngược lại. Cả hai loại chủ thể đều xét xử chỉ căn cứ vào pháp luật và niềm tin của mình về pháp luật. Đây là phương diện độc lập bên trong của Tòa án. Thứ hai, thẩm phán và hội thẩm độc lập với các yếu tố tác động từ bên ngoài, bao gồm sự tác động từ các thẩm phán, hội thẩm đồng nghiệp cấp trên hay bất kì đơn vị, tổ chức nào khác. Đây là phương diện độc lập bên ngoài của thẩm phán và hội thẩm.
Trước đây, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về nguyên tắc độc lập tư pháp như sau: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 130). Với nội dung này, nguyên tắc độc lập tư pháp đã được hiểu theo nghĩa hẹp, có nghĩa là chỉ khi thực hiện xét xử tại phiên tòa thì thẩm phán và hội thẩm mới độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Quy định của Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng hơn phạm vi của nguyên tắc, với nghĩa là thẩm phán, hội thẩm độc lập trong suốt quá trình thực hiện chức năng xét xử, không chỉ khi xét xử mà cả khi tiến hành các hoạt động tố tụng khác. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng nhấn mạnh “nghiêm cấm đơn vị, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (khoản 2 Điều 103). Mặc dù quy định này chưa được cụ thể hóa trọn vẹn trong các luật có liên quan song có thể thấy về tổng thể nội dung của nguyên tắc độc lập tư pháp đã được mở rộng và nhấn mạnh trong Hiến pháp năm 2013 hơn nhiều so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Nguyên tắc độc lập tư pháp là yếu tố bảo đảm cần thiết để Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý. Để chứng tỏ sự thi hành công lý, Tòa án phải thể hiện sự khách quan, công bằng của mình khi xét xử. Các bên trong tranh chấp trước Tòa án phải thấy rằng Tòa án không thiên vị ai, chỉ xét xử theo lẽ phải, lẽ công bằng và quy định của pháp luật. Vì vậy, Tòa án phải có khả năng và trên thực tiễn không phụ thuộc vào bất kì ai, không ai có thể gây tác động tới Tòa án để làm sai lệch “cán cân công lý” mà Tòa án có sứ mệnh phải giữ gìn. Chỉ khi nào thẩm phán và hội thẩm thật sự độc lập thì điều đó mới có thể trở thành hiện thực.
Nguyên tắc độc lập tư pháp cũng là điều kiện cần thiết để bảo đảm nguyên tắc pháp quyền (mối quan hệ này đã được phân tích ở Chương X).
Khi nói tới nguyên tắc tư pháp độc lập là nói tới các biện pháp bảo đảm sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm. Thẩm phán và hội thẩm đều là con người. Họ không thể xét xử độc lập nếu việc xét xử có liên quan tới lợi ích của ai đó có quyền năng gây ảnh hưởng lên họ. Vì vậy, chính các biện pháp bảo đảm, chứ không phải sự dũng cảm của thẩm phán, mới làm nên sự độc lập của thẩm phán và qua đó là sự độc lập của Tòa án. Về mặt lý luận, một quốc gia có thể áp dụng nhiều biện pháp để bảo đảm sự độc lập của thẩm phán khi xét xử, ví dụ về bảo đảm sự nghiệp, bảo đảm thu nhập, bảo đảm về công việc, nghề nghiệp… Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng đã có những quy định thể hiện sự chú trọng tới các biện pháp bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở mức độ cao hơn nhiều so với trước đây.
4. Nguyên tắc Xét xử có hội thẩm tham gia
Tinh thần chung của nguyên tắc này là quá trình xét xử của Tòa án có sự tham gia thực hiện bởi một loại chủ thể không uỷ quyền cho chuyên môn pháp luật mà uỷ quyền cho nhận thức chung của xã hội – Hội thẩm. Nguyên tắc được thể hiện rõ ràng nhất qua sự hiện diện của Bồi thẩm đoàn (Jury) trong hệ thống Tòa án Vương quốc Anh, sau này được du nhập sang các quốc gia thuộc hệ thống Anh – Mỹ. Ở hệ thống pháp luật châu u lục địa, các quốc gia như Pháp, Đức… cũng đã từ lâu áp dụng nguyên tắc này trong hệ thống Tòa án của mình. Tất nhiên, cùng một nguyên tắc song nội dung và hình thái thể hiện ở từng quốc gia là khác nhau.
Ở Việt Nam, nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia được quy định lần đầu tiên trong Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, khi đó lần đầu tiên chế định “hội thẩm nhân dân” được hình thành trong hệ thống Tòa án. Hiến pháp năm 1959, các luật tổ chức Tòa án và pháp luật tố tụng sau đó tiếp tục ghi nhận và cụ thể hóa nguyên tắc, tất nhiên với nội dung quy định ở từng thời kì không hoàn toàn giống nhau. Ở Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc này được quy định tại khoản 1 Điều 103 và được cụ thể hóa bởi các quy định của pháp luật tố tụng với các nội dung như sau:
Thứ nhất, hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện không chỉ bởi thẩm phán mà cả hội thẩm, bao gồm hội thẩm quân nhân phục vụ trong các Tòa án quân sự và hội thẩm nhân dân phục vụ trong các Tòa án còn lại. Khác với thẩm phán, thế mạnh của hội thẩm không phải là kiến thức pháp luật, họ không bắt buộc phải có bằng cử nhân luật và hiểu biết pháp luật sâu như thẩm phán. Mặc dù vậy, cùng với thẩm phán, hội thẩm tham gia xét xử các vụ tranh chấp mà Tòa án thụ lí. Sự hiện diện của hội thẩm thể hiện “tính xã hội” trong hoạt động xét xử vốn mang tính chuyên môn pháp luật cao của Tòa án.
Thứ hai, hội thẩm chỉ xuất hiện trong hoạt động xét xử ở cấp sơ thẩm. Xét xử phúc thẩm và xử giám đốc thẩm chỉ do các thẩm phán thực hiện mà không có sự tham gia của hội thẩm. Vì vậy, nguyên tắc “xét xử có hội thẩm tham gia” không có nghĩa là hội thẩm tham gia mọi hoạt động xét xử của Tòa án mà chỉ tham gia vào lần xét xử đầu tiên đối với mỗi vụ việc.
Thứ ba, khi xét xử hội thẩm nhân dân có quyền quyết định như thẩm phán đối với vụ việc. Đối với mỗi vụ tranh chấp, việc xét xử của Tòa án luôn bao gồm hai công đoạn lớn: (1) xác định sự thật của vụ việc; (2) giải thích, áp dụng, làm rõ pháp luật đối với vụ việc trên cơ sở đó xác định hình phạt pháp lý đối với các bên. Ở các quốc gia theo hệ thống luật Anh – Mỹ, có sự phân công giữa bồi thẩm đoàn và thẩm phán để đưa ra phán quyết ở mỗi công đoạn, theo đó công đoạn thứ nhất thuộc về bồi thẩm đoàn và công đoạn thứ hai thuộc về thẩm phán. Điều này thể hiện rõ nhất trong vụ án hình sự. Ở Việt Nam, hội thẩm và thẩm phán cùng trong hội đồng xét xử và cùng đưa ra phán quyết ở cả hai công đoạn. Có thể thấy, nội dung này không thể hiện trong lời văn của khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, song nó là hiển nhiên do kết hợp với nguyên tắc xét xử tập thể (khoản 4 Điều 103) và thể hiện qua các quy định của pháp luật tố tụng.
Thứ tư, nguyên tắc “xét xử có hội thẩm tham gia” không mang tính tuyệt đối. Không phải mọi thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án đều có hội thẩm tham gia. Trong trường hợp các vụ tranh chấp đơn giản, tình tiết rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không phức tạp, Hiến pháp năm 2013 cho phép không áp dụng nguyên tắc này. Pháp luật tố tụng cụ thể hóa các trường hợp đó dưới thuật ngữ “thủ tục rút gọn” mà việc xét xử sơ thẩm chỉ do thẩm phán thực hiện. Tất nhiên, các trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn phải được quy định rõ trong pháp luật tố tụng.
5. Nguyên tắc Xét xử công khai
Nguyên tắc này được hình thành với tinh thần bao trùm là “Tòa án không những có nhiệm vụ thi hành công lý mà còn phải cho thấy công lý đã được thi hành”. Vì vậy, nội dung chủ đạo của nguyên tắc là công việc xét xử của Tòa án phải được tổ chức sao cho công chúng có thể tham dự được và thông tin về việc xét xử đến với công chúng một cách tối đa. Nội dung này thể hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, trước khi xét xử mỗi vụ án, Tòa án phải công khai địa điểm, thời gian xét xử để công chúng được biết nếu quan tâm.
Thứ hai, phiên xử phải được tổ chức công khai để người dân tham dự nếu có nhu cầu. Tòa án không được từ chối người dân thực hiện quyền này, trừ các trường hợp được phép xét xử kín theo hướng dẫn của pháp luật. Trong trường hợp vì lý do bất khả kháng mà Tòa án không đáp ứng được (ví dụ, phòng xử án đã chật…), thì Tòa án phải áp dụng các biện pháp để người dân theo dõi được diễn biến của phiên tòa.
Thứ ba, trong quá trình xét xử, có một số công đoạn có thể được thực hiện không công khai (ví dụ, khi nghị án, khi hòa giải các bên), song bản án phải được tuyên công khai và công bố để mọi người biết và nghiên cứu nếu muốn.
Thứ tư, Tòa án phải đưa ra phân tích, lập luận, lý do cho mỗi phán quyết của mình và viết rõ lập luận, lý do đó trong bản án được công bố, làm sao phải cho người dân thấy mỗi quyết định của Tòa án đều phải có lý lẽ được phân tích và lập luận một cách rõ ràng.
Thứ năm, nguyên tắc xét xử công khai không mang tính tuyệt đối. Trong một số trường hợp đặc biệt, có lý do chính đáng, Tòa án có thể tiến hành xét xử kín. Các trường hợp đó bao gồm: (1) để bảo đảm không lộ bí mật nhà nước; (2) để bảo đảm thuần phong, mỹ tục của dân tộc; (3) để bảo vệ người chưa thành niên; (4) giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự.
Nguyên tắc xét xử công khai có ý nghĩa vô cùng lớn và đa chiều đối với hoạt động của Tòa án nói riêng và hệ thống tư pháp nói chung:
Thứ nhất, xét xử công khai là một phương thức kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Khi người dân được tham dự các phiên xử của Tòa án họ sẽ trực tiếp đánh giá được mức độ thuyết phục, sự có lý trong hoạt động xét xử. Đặc biệt, khi bản án và lập luận được công khai thì bất kì ai vào bất kì lúc nào cũng có thể đánh giá được lý lẽ trong hoạt động của Tòa án. Các bản án cũng được lưu lại như bằng chứng rõ ràng để đánh giá sự đúng đắn trong công tác xét xử của Tòa án. Sự công khai làm cho thẩm phán phải hết sức cẩn trọng với công tác của mình, xét xử phải thật sự khách quan, trình độ lập luận phải thực sự thuyết phục, bởi nếu không thì với các bản án được lưu lại lúc nào cũng có thể phát hiện và truy cứu trách nhiệm của thẩm phán.
Thứ hai, xét xử công khai là một cách thức làm cho người dân thấy rõ sự hiện diện của công lý trong xã hội, qua đó trực tiếp ghi nhận và đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ thi hành công lý của Tòa án. Khi xét xử, Tòa án thi hành công lý đối với người dân. Khi thực hiện xét xử công khai, người dân chứng kiến được công lý mà Tòa án thi hành, đồng thời thấy rằng có sự hiện diện của công lý trong xã hội, từ đó có niềm tin vào công lý, vào Tòa án để rồi người dân không tự xử lấy tranh chấp của mình mà nhờ vào Tòa án xét xử một cách hòa bình. Tranh chấp không chuyển thành xung đột và trật tự xã hội nhờ vậy được bảo đảm.
Thứ ba, nguyên tắc xét xử công khai góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Khi người dân tham dự phiên tòa và lý lẽ của các bản án được công khai được bình luận bởi báo chí và xã hội, người dân thực sự thấy được ý nghĩa và sự gần gũi của pháp luật trong cuộc sống hàng ngày và từ đó hình thành ý thức tuân thủ pháp luật một cách tự nhiên.
Thứ tư, Tòa án thực hiện nguyên tắc xét xử công khai cũng đồng thời bảo đảm quyền cơ bản hiến định của người dân – quyền được xét xử công khai. Tất nhiên, quyền được xét xử công khai có phạm vi bao trùm rất rộng, không chỉ đối với công đoạn xét xử mà tất cả các công đoạn khác của quy trình tố tụng tư pháp. Tuy nhiên, sự công khai trong hoạt động xét xử là nhân tố cần thiết nhất để bảo đảm quyền này, đặc biệt đối với tư pháp hình sự. Xét xử công khai tất yếu đòi hỏi công khai kết luận điều tra, lập luận của bên buộc tội, lập luận của bên gỡ tội…, từ đó nội dung, chất lượng của các công đoạn trong tố tụng hình sự được phơi bày và được đánh giá.
6. Nguyên tắc Xét xử tập thể
Theo nguyên tắc này, công việc xét xử tại các Tòa án của Việt Nam được thực hiện bởi các hội đồng xét xử. Các hội đồng xét xử do chánh án các Tòa án tương ứng thành lập để trực tiếp xét xử một vụ án cụ thể. Khi Tòa án xét xử sơ thẩm, hội đồng xét xử sơ thẩm thường gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm hoặc 2 thẩm phán và 3 hội thẩm; khi Tòa án xét xử phúc thẩm, hội đồng xét xử phúc thẩm thường gồm 3 thẩm phán; khi xét xử giám đốc thẩm, hội đồng xét xử bao gồm 3, 5 thẩm phán hoặc nhiều hơn. Hội đồng xét xử ra phán quyết đối với một vụ án theo nguyên tắc đa số và bản án được coi là quyết định của Tòa án nơi thành lập hội đồng xét xử mà không cần sự phê chuẩn của chánh án Tòa án đó. Vì vậy, trên thực tiễn, chính hội đồng xét xử với sự hiện diện của thẩm phán và hội thẩm mới là chủ thể thực hiện công việc xét xử còn Tòa án là nơi tiến hành xét xử.
Nguyên tắc này được cho là bảo đảm công việc xét xử của Tòa án được thực hiện một cách chính xác, bởi vì trí tuệ tập thể sẽ giúp xem xét vấn đề một cách kỹ càng hơn và do đó phán quyết có cơ sở vững chắc hơn.
Tuy nhiên, áp dụng nguyên tắc xét xử tập thể cũng đòi hỏi thời gian và nguồn lực cho các thủ tục hành chính, hậu cần và nghị án. Đối với những vụ án đơn giản và có tình tiết rõ ràng thì các thủ tục đó có thể gây lãng phí không cần thiết. Do đó, Hiến pháp năm 2013 cũng cho phép ngoại lệ đối với nguyên tắc này đối với các vụ án đơn giản, tình tiết rõ ràng. Trong những trường hợp đó, pháp luật tố tụng cho phép áp dụng thủ tục rút gọn với chỉ 1 thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử.
7. Nguyên tắc Bảo đảm tranh tụng trong xét xử
Hệ thống tư pháp của Việt Nam trước Hiến pháp năm 2013 được xây dựng và hoạt động theo mô hình tố tụng thẩm cứu truyền thống. Theo đó, khi một vụ tranh chấp xảy ra, các đơn vị của nhà nước như Tòa án, điều tra, viện kiểm sát đóng vai trò và có nhiệm vụ chính trong việc xử lý và đưa ra phán quyết. Vai trò của các bên tranh chấp và luật sư uỷ quyền chỉ là thứ yếu. Thậm chí, trước đây có giai đoạn luật sư còn được coi là chỉ có vai trò “bổ trợ tư pháp”. Điều này thể hiện đặc biệt rõ trong tư pháp hình sự, nơi mà Tòa án, viện kiểm sát, đơn vị điều tra được gọi là “đơn vị tiến hành tố tụng”, còn luật sư và các bên liên quan chỉ được coi là “người tham gia tố tụng”. Các đơn vị tiến hành tố tụng là những người “dẫn dắt”, “chi phối” quá trình tố tụng hình sự và “kiểm soát” bộ hồ sơ của vụ án. Luật sư luôn gặp khó khăn để khẳng định vai trò bào chữa của mình trong quá trình tố tụng. Việc quá xem nặng vai trò của của các đơn vị nhà nước và xem nhẹ vai trò của luật sư cũng như các bên dẫn tới xu hướng chủ quan, duy ý chí khi xử lý các vụ tranh chấp, từ đó dẫn tới tỷ lệ cao bản án oan, sai. Trong các vụ án dân sự và hành chính, việc xem nhẹ vai trò của các bên cũng như luật sư bảo vệ quyền lợi cho các bên cũng dễ dẫn tới sự chủ quan, duy ý chí của thẩm phán khi xét xử.
Để khắc phục tình trạng trên, Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Đây là nguyên tắc mới trong hoạt động của Tòa án Việt Nam. Nguyên tắc này có 2 nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, nền tảng của hệ thống tố tụng Việt Nam vẫn theo mô hình tố tụng thẩm cứu, song vai trò tranh biện của các bên phải được tăng cường trong quá trình xét xử. Nói cách khác, tinh thần của nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng” là Tòa án phải thực sự coi trọng sự tranh biện giữa các bên trong quá trình xét xử. Thông thường, các bên trong vụ án hình sự là viện kiểm sát – buộc tội và luật sư/người bào chữa – gỡ tội; trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động là nguyên đơn và bị đơn; trong vụ án hành chính là người khởi kiện – người dân và người bị kiện – đơn vị hành chính nhà nước bị kiện. Nguyên tắc tranh tụng yêu cầu các bên phải được tranh tụng công bằng và bình đẳng với nhau trước Tòa án. Yêu cầu này tưởng chừng đơn giản, song nó kéo theo hàng loạt những yêu cầu khác mà pháp luật tố tụng phải quy định (ví dụ, quyền tiếp cận ngang bằng đối với hồ sơ vụ án, quyền được gặp thân chủ vào bất kì lúc nào, quyền được đối xử bình đẳng trong phiên xét xử…). Chỉ khi làm được điều đó thì Tòa án mới có cơ hội lắng nghe ý kiến, lập luận từ các chiều khác nhau để trên cơ sở đó đưa ra quyết định đúng đắn, qua đó tránh chủ quan, duy ý chí dẫn tới các bản án oan, sai.
Thứ hai, hội đồng xét xử phải lắng nghe các bên tranh biện trong phiên xét xử và phán quyết chủ yếu dựa trên lý lẽ mà các bên đưa ra. Đương nhiên, trong hệ thống tố tụng của Việt Nam, thành viên hội đồng xét xử luôn nghiên cứu trước hồ sơ và do đó đã hình thành quan điểm về vụ việc trước khi phiên xét xử diễn ra. Mặc dù vậy, tại phiên xét xử, tức là nơi các bên đưa ý kiến tranh luận về vụ việc, thẩm phán và hội thẩm phải thực sự lắng nghe ý kiến các bên, coi trọng ý kiến các bên như nhau để trên cơ sở đó ra phán quyết phù hợp, cho dù phán quyết đó có thể không giống với quan điểm của mình trước khi xét xử.
Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng có phạm vi tác động không chỉ đối với Tòa án mà đối với cả quá trình tố tụng nói chung, đặc biệt là tố tụng hình sự. Bởi lẽ, tố tung hình sự liên quan tới nhiều đơn vị nhà nước và gồm nhiều công đoạn như khởi tố, truy tố rồi mới tới xét xử. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng đòi hỏi đề cao vai trò của luật sư ngang bằng với viện kiểm sát không chỉ trong giai đoạn xét xử mà cả các giai đoạn tố tụng trước đó. Tất nhiên, là đơn vị nhà nước, viện kiểm sát có những đặc quyền mà luật sư khó có thể có. Tuy nhiên, về cơ bản luật sư và viện kiểm sát phải có các quyền ngang nhau để có thể tạo ra một sự tranh tụng công bằng khi xét xử.
8. Nguyên tắc Xét xử hai cấp/Hai cấp xét xử
Nguyên tắc này bắt nguồn từ một giá trị tiến bộ trong hệ thống tư pháp châu u lục địa mà uỷ quyền là Cộng hòa Pháp, đó là người dân có quyền yêu cầu Tòa án xét xử lần thứ hai đối với tranh chấp của mình nếu chưa bị thuyết phục bởi lần xét xử đầu tiên. Tòa án tuân thủ nguyên tắc hai cấp xét xử chính là để bảo đảm thực hiện quyền được xét xử hai lần của người dân.
Hiện nay, nguyên tắc xét xử hai cấp được quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa bởi Điều 6 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các luật tố tụng. Nội dung chính của nguyên tắc này như sau:
Thứ nhất, khi Tòa án đã kết thúc xét xử sơ thẩm đối với vụ án mà một trong hai bên chưa hài lòng với phán quyết sơ thẩm thì có thể yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm đối với vụ án. Việc yêu cầu được xét xử phúc thẩm là quyền của các bên đương sự và Tòa án có nghĩa vụ đáp ứng; nếu kháng cáo phúc thẩm đã được xử phúc thẩm. Đó là lý do khoản 1 Điều 6 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm”. Phạm vi của xét xử phúc thẩm căn cứ vào phạm vi yêu cầu xét xử phúc thẩm của các bên. Vì vậy, hai cấp xét xử ở đây là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Cần lưu ý là giám đốc thẩm không phải là thủ tục xét xử lại vụ án mà là xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật song có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc áp dụng sai pháp luật. Do đó, nguyên tắc hai cấp xét xử không áp đặt lên Tòa án nghĩa vụ xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm cho dù các bên đương sự có yêu cầu.
Thứ hai, các bản án sơ thẩm sau khi được hội đồng xét xử tuyên án không có hiệu lực pháp luật ngay. Các bên luôn có một khoảng thời gian, thường là 15 ngày, để kháng cáo phúc thẩm. Hết khoảng thời gian đó mà không có kháng cáo thì các bên được coi là bị thuyết phục bởi bản án sơ thẩm và do đó bản án sơ thẩm có hiệu lực. Nếu trong khoảng thời gian đó các bên thực hiện quyền kháng cáo phúc thẩm thì phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo sẽ bị coi là không có hiệu lực và sẽ được xử phúc thẩm. Sau khi Tòa án phúc thẩm xét xử thì quyền được xét xử hai lần đã được đáp ứng và bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên. Quyền kháng cáo của các bên chấm dứt.
Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử cũng có nghĩa là tương ứng với quyền 2 lần đi tìm công lý, là nghĩa vụ của Tòa án đem lại công lý qua tối đa hai lần xử án. Khi bản án đã có hiệu lực mà bị phát hiện có sai sót thì Tòa án phải chịu trách nhiệm với những sai sót đó và bồi thường nếu phát sinh tổn hại cho các bên.
Về mặt tổ chức, nguyên tắc hai cấp xét xử cũng yêu cầu hệ thống Tòa án phải được tổ chức thành các cấp Tòa án để phục vụ các cấp xét xử, theo đó thủ tục xét xử phúc thẩm phải được thực hiện bởi cấp Tòa án là cấp trên của cấp Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
Nói cách khác, hệ thống Tòa án phải được tổ chức sao cho không xảy ra trường hợp một Tòa án đồng thời xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với cùng vụ việc.
9. Nguyên tắc Bảo đảm quyền bảo vệ pháp lý của các bên
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 7 Điều 103 Hiển pháp năm 2013: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”. Mặc dù quy định đề cập trước tiên tới quyền bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc này có phạm vi áp dụng đối với Tòa án khi xét xử tất cả các loại vụ việc chứ không chỉ vụ việc hình sự. Nội dung của nguyên tắc như sau:
Thứ nhất, người dân có quyền được bảo vệ về mặt pháp lý trước Tòa án. Mỗi vụ tranh chấp trước Tòa án đều có thể được coi là một cuộc chiến pháp lý giữa hai bên đối tụng. Để chiến thắng trong cuộc chiến pháp lý này, các bên sử dụng lý lẽ dựa trên pháp luật thay vì dùng vũ lực. Quyền được bảo vệ pháp lý chính là quyền được sử dụng pháp luật đưa ra lý lẽ để bảo vệ các quyền hợp pháp của mình. Quyền được bảo vệ pháp lý còn bao gồm cả quyền được hiện diện trước Tòa án trong phiên xét xử, được trình bày quan điểm và được Tòa án lắng nghe, cân nhắc.
Thứ hai, người dân có quyền được thuê luật sư hoặc người uỷ quyền để thực hiện bảo vệ pháp lý cho mình. Về lý thuyết, quyền bảo vệ pháp lý bao gồm quyền tự mình hoặc nhờ người khác đưa ra lý lẽ để bảo vệ mình. Trong tố tụng hình sự, quyền được bảo vệ của bị can, bị cáo chính là quyền tự bào chữa hoặc có luật sư bào chữa. Các đương sự khác trong vụ án hình sự và các bên trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính có quyền tự mình hoặc có luật sư bảo vệ pháp lý cho mình. Vế thứ hai của mệnh đề trên là hết sức cần thiết. Bởi lẽ, khi vướng vào tranh chấp pháp lý thì các bên thường không đủ sáng suốt hoặc chuyên môn pháp lý để tự bảo vệ cho mình. Do đó họ phải nhờ tới những người mà họ tin tưởng, thường là luật sư – người có chuyên môn và chuyên nghiệp trong lĩnh vực pháp luật. Với tư cách uỷ quyền cho một bên tranh chấp, vai trò của luật sư trong hệ thống tư pháp cũng cần thiết như thẩm phán hay kiểm sát viên. Luật sư yếu có nghĩa là lợi ích chính đáng của một bên có nguy cơ không được bảo vệ một cách công bằng và do đó công lý khó có thể được thi hành. Vì vậy, nguyên tắc “bảo đảm quyền được bảo vệ pháp lý của các bên” yêu cầu pháp luật phải quy định cho luật sư những quyền hạn đủ mạnh để uỷ quyền và bảo vệ cho thân chủ của mình trước Tòa án.
Thứ ba, Tòa án, với tư cách là đơn vị xét xử, có nghĩa vụ bảo đảm quyền được bảo vệ pháp lý của các bên. Tòa án không được xét xử vắng mặt trong các vụ án có thể ảnh hưởng tới lợi ích của các bên. Tòa án phải thông báo cho các bên biết quyền được bảo vệ pháp lý của mình. Khi các bên viện dẫn và thực hiện quyền này thì Tòa án phải tôn trọng; khi quyền này bị các đơn vị nhà nước hoặc các bên có liên quan xâm phạm thì Tòa án phải bảo vệ. Chính Tòa án chứ không phải đơn vị nào khác có trách nhiệm bảo đảm quyền được bảo pháp lý của các bên, bởi lẽ Tòa án là đơn vị phân xử tranh chấp, đơn vị bảo vệ công lý. Mặt khác, việc bảo đảm quyền được bảo vệ pháp lý của các bên cũng giúp hoạt động xét xử của Tòa án hiệu quả hơn. Tòa án không thể xét xử áp đặt, một chiều. Khi các bên đưa ra lý lẽ bảo vệ mình thì Tòa án phải lắng nghe, cũng có nghĩa là Tòa án có thêm cơ sở để đưa ra phán quyết đúng đắn cho tranh chấp mà mình đang xử lí.
Trên đây là quy định chi tiết Điều 103 Hiến pháp 2013 mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!