Luật Nhân quyền quốc tế là một trong những ngành luật nằm trong hệ thống luật quốc tế. Vậy Luật Nhân quyền quốc tế là gì? Nguồn của Luật Nhân quyền quốc tế là gì? Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật này thế nào? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu qua nội dung trình bày dưới đây!
1. Luật nhân quyền quốc tế là gì?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Luật nhân quyền quốc tế (international human rights law), tuy nhiên, từ một góc độ khái quát, có thể hiểu đó là một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập cửa hàng pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Về mặt cách thức, Luật nhân quyền quốc tế được thể hiện qua hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế, bao gồm những văn kiện mang tính ràng buộc (các công ước, nghị định thư) và các văn kiện không mạng tính ràng buộc (các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, hướng dẫn…)
2. Ngành luật này có vị trí thế nào trong hệ thống luật quốc tể?
Khái niệm Luật nhân quyền quốc tế hẹp hơn khái niệm Luật nhân quyền (human rights law). Căn cứ, trong khi Luật nhân quyền quốc tế chỉ bao gồm các văn kiện pháp lý quốc tế (toàn cầu và khu vực) thì Luật nhân quyền bao gồm cả các văn kiện pháp lý quốc tế, khu vực và quốc gia đề cập đến quyền con người.
Quan điểm chung cho rằng Luật nhân quyền quốc tế là một ngành luật nằm trong hệ thống luật quốc tế chung (hay còn gọi là công pháp quốc tế – public international law), cùng với các ngành luật quốc tế khác như Luật nhân đạo quốc tế, Luật hình sự quốc tế, Luật biển quốc tế, Luật hàng không quốc tế, Luật ngoại giao và lãnh sự, Luật tổ chức quốc tế… bởi hai lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Luật nhân quyền quốc tế mở rộng phạm vi chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế. Trước đây, luật quốc tế chỉ điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế, tuy nhiên hiện nay, cùng với sự ra đời của Luật nhân quyền quốc tế, mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế vẫn là các quốc gia và tổ chức quốc tế nhưng trong một số bối cảnh, luật quốc tế còn điều chỉnh cả mối quan hệ giữa các cá nhân và các nhà nước, liên quan đến các quyền con người mà đã được các văn kiện quốc tế ghi nhận và bảo vệ.
Thứ hai, Luật nhân quyền quốc tế làm thay đổi quan niệm truyền thống về tính bất khả xâm phạm về phương diện đối nội của chủ quyền quốc gia. Trong luật quốc tế trước đây, về phương diện đối nội, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền toàn vẹn và bất khả xâm phạm của các nhà nước được tự do hành động trong đối xử với công dân và xử lý các công việc nội bộ của nước mình. Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật nhân quyền quốc tế, quan niệm này đã thay đổi. Hiện nay, mặc dù các nhà nước vẫn có quyền đầu tiên và vai trò hàng đầu trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến công việc nội bộ và công dân của nước mình, song trong nhiều bối cảnh, quyền hành động của nhà nước với các công dân không phải là một quyền tuyệt đối. Nói cách khác, với sự ra đời của Luật nhân quyền quốc tế, các nhà nước không còn có quyền tự do hoàn toàn trong việc đối xử với công dân của nước mình như trước kia. Trong mối quan hệ với công dân của minh, các nhà nước hiện đại không chỉ phải tuân thủ những quy định trong pháp luật do chính mình đề ra, mà còn phải tuân thủ những tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người mà mình đã tự nguyện tuân thủ (qua việc tham gia các điều ước quốc tế về vấn đề này), và bị bắt buộc phải tuân thủ (các tập cửa hàng quốc tế về quyền con người). Hiện nay, việc một nhà nước vi phạm các quyền con người của công dân nước mình đã được pháp luật quốc tế ghi nhận sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ quốc tế của nhà nước đó .
3. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật nhân quyên quốc tế là gì?
Là một ngành luật quốc tế độc lập nằm trong hệ thống luật quốc tế chung, Luật nhân quyền quốc tế có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.
Về đối tượng điều chỉnh:
Luật nhân quyền quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể truyền thống của luật quốc tế chung (các nhà nước và tổ chức quốc tế…) trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Bên cạnh đó, trong nhiều bối cảnh, Luật nhân quyền quốc tế còn điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhà nước và công dân của họ liên quan đến việc bảo đảm thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người (ví dụ, việc các ủy ban giám sát công ước xem xét đơn khiếu nại, tố cáo của các cá nhân cho rằng họ là nạn nhân của những hành động vi phạm quyền con người do các chính phủ của họ gây ra…)
Về phương pháp điều chỉnh:
Luật nhân quyền quốc tế cũng áp dụng những phương pháp điều chỉnh chung của luật quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung Luật nhân quyền quốc tế đặt trọng tâm vào các biện pháp vận động, gây sức ép quốc tể. Các biện pháp cưỡng chế (trừng phạt về quân sự, ngoại giao, kinh tể) mặc dù về nguyên tắc có thể sử dụng nhưng rất ít khi được áp dụng.
4. Nguồn của Luật nhân quyền quốc tế là gì?
Nguồn của Luật nhân quyền quốc tế trước hết cũng là nguồn của luật quốc tế nói chung, trong đó bao gồm: Các điều ước quốc tế (chung hoặc riêng); Các tập cửa hàng quốc tế; Các nguyên tắc pháp luật chung được các dân tộc văn minh thừa nhận; Các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế; và Quan điểm của các chuyên gia pháp luật có uy tín cao.
Trong thực tiễn, những nguồn cụ thể sau đây thường được viện dẫn khi đề cập đến Luật nhân quyền quốc tế:
– Các điều ước quốc tế (công ước, nghị định thư, có hiệu lực toàn cầu hay khu vực) về quýền con người do các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và thành viên của các tổ chức liên chính phủ khác thông qua. Đây là những văn kiện có hiệu lực ràng buộc với các quốc gia đã tham gia.
-Các nghị quyết có liên quan đến vấn đề quyền con người do các đơn vị chính và đơn vị giúp việc của Liên Hợp Quốc thông qua. Trong số này, chi có các nghị quyết của Hội đồng Bảo an là có hiệu lực pháp lý bắt buộc.
-Các văn kiện quốc tế khác về quyền con người (các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, nguyên tắc, hướng dẫn…) do Liên Họp Quốc và các tổ chức liên chính phủ khác thông qua. Hầu hết các văn kiện dạng này không có hiệu lực ràng buộc pháp lý với các quốc gia, tuy nhiên, có một số văn kiện, cụ thể như UDHR, được xem là luật tập cửa hàng quốc tế, và do đó có hiệu lực thực tiễn như các điều ước quốc tế.
-Những bình luận, khuyến nghị chung (với mọi quốc gia) và những kết luận khuyến nghị (với những quốc gia cụ thể) do ủy ban giám sát các công ước quốc tế về quyền con người đưa ra trong quá trình xem xét báo cáo của các quốc gia về việc thực hiện những công ước này, cũng như trong việc xem xét các đơn khiếu nại về việc vi phạm quyền con người của các cá nhân, nhóm cá nhân. Mặc dù về mặt pháp lý, những tài liệu dạng này chỉ có tính chất khuyến nghị với các quốc gia, song trên thực tiễn, chúng được xem là những ý kiến chính thức giải thích nội dung của các điều ước quốc tế về quyền con người và thường được các quốc gia tôn trọng, tuân thủ.
-Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế và một số tòa án khu vực về quyền con người (đặc biệt là các Tòa án quyền con người châu Âu và Toà án quyền con người Liên Mỹ).
-Quan điểm của các chuyên gia có uy tín cao về quyền con người (được thể hiện trong các sách và tài liệu chuyên khảo được thường xuyên trích dẫn).
5. Luật nhân quyên quốc tế và pháp luật quốc gia có mối quan hệ thế nào?
Về cơ bản, mối quan hệ giữa Luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia cũng là mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung với pháp luật quốc gia. Liên quan đến vấn đề này, quan điểm phổ biến cho rằng, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống khác nhau nhưng không đối lập mà có mối quan hệ, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Pháp luật quốc tế có thể tác động, thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc gia trong khi pháp luật quốc gia đóng vai trò là phương tiện truyền tải và điều kiện đảm bảo cho pháp luật quốc tế được thực hiện trên thực tiễn.
Trong lĩnh vực nhân quyền, ở thời kỳ đầu, pháp luật quốc gia là nền tảng thúc đẩy sự hình thành và phát triển của Luật nhân quyền quốc tế. Thực tế cho thấy, các văn kiện quốc tế cơ bản về nhân quyền đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những văn bản pháp luật quốc gia nổi tiếng thế giới như: Hiến chương Magna Carta của nước Anh, Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp… trong đó chứa đựng những quy phạm rất tiến bộ, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là những giá trị phổ biến, chung cho toàn nhân loại, vượt ra khỏi phạm vi mọị biên giới quốc gia. Nhiều nguyên tắc cơ bản của Luật nhân quyền quốc tế như nguyên tắc về bình đẳng, tự do, suy đoán vô tội, xét xử công bằng, quyền dân tộc tự quyết… đều xuất phát từ pháp luật quốc gia.
Mặt khác, Luật nhân quyền quốc tế cũng có tác động mạnh đến sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia. Sự hình thành và phát triển của hệ thống văn kiện Luật nhân quyền quốc tế kể từ khi Liên Họp Quốc được thành lập đã đồng thời thúc đẩy quá trình pháp điển hóa các quyền con người vào hệ thống pháp luật quốc gia. Trong hơn một nửa thế kỷ qua, hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới đã được sửa đổi, bổ sung một cách đáng kể theo hướng hài hòa với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
Hiện tại, pháp luật của hầu hết quốc gia đóng vai trò là phương tiện truyền tải Luật nhân quyền quốc tế, là điều kiện đảm bảo cho Luật nhân quyền quốc tế được thực hiện trên thực tiễn. Thông thường, pháp luật quốc tế không được áp dụng trực tiếp bởi tòa án của các quốc gia. Để pháp luật quốc tế được thực thi trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, các nhà nước phải “nội luật hoá” những quy phạm pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật nước mình, tức là sửa đổi hoặc bổ sung hệ thống pháp luật nước mình để làm hài hòa với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp pháp luật quốc gia chưa hài hòa với một điều ước quốc tế về quyền con người mà quốc gia đó là thành viên thì hầu hết các quốc gia ưu tiên áp dụng các điều ước quốc tế. Đây cũng chính là một nguyên tắc cơ bản (nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế – pacta sunt servanda) được nêu trong Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969.
Trên đây là Giới thiệu luật nhân quyền quốc tế mà LVN Group muốn giới thiệu đến quý bạn đọc. Hi vọng nội dung trình bày sẽ hỗ trợ và giúp ích cho quý bạn đọc về vấn đề này!