Ở nước ta, bình đẳng giới được Đảng và Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt và được hiện thực hóa bằng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, được thực hiện bằng nhiều dự án nhằm thúc đẩy quá trình trao quyền cho phụ nữ từng bước xóa đi rào cản, sự phân biệt nam và nữ trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, vấn đề bất bình đẳng giới vẫn còn nhiều tồn đọng gây nhức nhối. Vậy, hậu quả của tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam là gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu vấn đề này trong nội dung trình bày dưới đây.
1. Bất bình đẳng giới là gì?
Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực. Sự phân biệt đối xử giữa nam giới và phụ nữ, tư tưởng trọng nam khinh nữ có thể xem như yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Những quan niệm xã hội về thân phận người phụ nữ là tài sản của người đàn ông hay mọi quyền lực thuộc về đàn ông đã khiến cho nam giới xem như cách ứng xử của họ với phụ nữ thế nào là quyền của nam giới trong gia đình.
Với tính gia trưởng, nam giới tự cho mình có quyền “dạy vợ”, nam giới có quyền đòi hỏi vợ con phục vụ, thực hiện những yêu cầu của mình. Người phụ nữ với vị thế lệ thuộc, phải phục tùng, làm theo. Nếu trái ý hoặc chậm trễ họ dễ bị người chồng đối xử thô bạo, xúc phạm nhân phẩm.
Thực tế phụ nữ cũng như đàn ông, họ sinh ra, lớn lên đều là con người. Họ cần được bình đẳng với nam giới về nhiều khía cạnh. Không có sự khác biệt gì giữa nam và nữ ở góc độ giới, nếu có chăng thì chỉ là sự khác biệt về giới tính.
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò, về năng lực của nam hoặc nữ vì vậy định kiến giới cũng là một trong những nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình.
2. Nguyên nhân gây ra tình trạng bất bình đẳng giới
2.1. Nguyên nhân bất bình đẳng giới trong giáo dục
Nguyên nhân bất bình đẳng giới trong giáo dục là do các thể chế xã hội, các chuẩn mực, tập cửa hàng, luật lệ của xã hội đã tác động rất lớn tới những người làm trong ngành giáo dục. Chính những điều đó đã quy định khuyến khích được không khuyến khích các định kiến về giới tính.
Ngay cả khi chúng ta không công khai phân biệt thì những định kiến, chuẩn mực đó vẫn quy định chúng ta về những vai trò thích hợp theo giới. Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục. Tình trạng đói nghèo của các gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ cũng là nguyên nhân.
2.2. Nguyên nhân bất bình đẳng giới trong xã hội
Trong gia đình truyền thống, ông bà, cha mẹ truyền dạy cho cháu con những nguyên mẫu về các quan niệm và hành vi mong đợi được cho là thích hợp đối với mỗi giới và các kỳ vọng của xã hội đối với nam giới và nữ giới. Chẳng hạn, quan niệm chung về đặc điểm tính cách của nữ giới là dịu dàng, nam giới là mạnh mẽ, quyết đoán.
Do vậy, phụ nữ được quan niệm là gắn liền với vai trò của người mẹ, người vợ, người nội trợ, là người phụ thuộc không quan tâm đến việc họ có thu nhập cao hay thấp; nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tấm gương đạo đức, là chỗ dựa về tinh thần của phụ nữ và trẻ em, là người chủ gia đình, uỷ quyền cho gia đình trong các quan hệ xã hội và cộng đồng.
Những đặc tính trên của nữ giới hay nam giới thực chất là do xã hội gán cho hoặc mong đợi các cá nhân nam và nữ thực hiện. Quan niệm trên chính là những định kiến giới đã tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những định kiến giới đó đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại phổ biến trong xã hội.
3. Hậu quả của bất bình đẳng giới ở Việt Nam
Bình đẳng giới phải được hiểu là sự đối xử công bằng về mặt luật pháp, cũng như vị thế xã hội giữa nam và nữ giới. Những thành tựu đã đạt được trong công tác bình đẳng giới của Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề đã và đang tồn tại là trở lực rất lớn cho công tác bình đẳng giới. Căn cứ như sau:
Về kinh tế: Chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ cùng một vị trí công việc vẫn tồn tại, cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới, lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực.
Về chính trị – xã hội: Tỷ lệ nữ giới làm công tác quản lý, lãnh đạo tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung, so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ nói riêng.
Trong gia đình: Phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình. Mặt khác, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia đình, nạn nhân của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.
Vì vậy, trong nội dung trình bày này, LVN Group đã gửi tới tới quý bạn đọc những thông tin cần thiết liên quan đến Hậu quả của tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam. Nếu còn bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến nội dung nội dung trình bày hoặc các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ ngay với LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời !!